NICÔPHÚQUỐC - LÊ KIM NGUYÊN
Ngày nào má Năm cũng bơi xuồng trên sông Ô Môn để bán rau cải và trái cây. Đôi khi chiếc xuồng nhỏ của má cũng cặp bến Bạch Đằng ở chợ Ô Môn, vì bán ở đó được giá hơn ở chợ Vàm Nhon. Mấy hôm nay má Năm mừng lắm vì càng gần Tết thì càng có lời nhiều hơn những ngày thường.
Chiều hôm đó má Năm bơi xuồng về nhà ở xã Định Môn. Má bơi khá nhanh cặp bờ sông theo con nước lớn. Trời chưa tắt nắng mà chiếc xuồng nhỏ của má đã qua khỏi rạch Nhum và rạch Tra. Đến Vàm Nhon má Năm dùng cây dầm bẻ lái cho chiếc xuồng nhỏ rẽ trái để về nhà. Không biết sao hôm nay má Năm rất vui, chắc má nghĩ đến nụ cười rạng rỡ trên khuôn mặt ngây thơ của thằng con khi nó nhận bao lì xì rất ít tiền của má. Vừa bơi xuồng má Năm vừa để ý đến những nụ hoa mai mới chớm nở trước nhà người ta, mà lòng thấy lâng lâng, bồi hồi xúc động đến khó tả. Má biết xuân đang về. Lúc má về đến nhà bà Ngàn Đô thì bỗng có tiếng súng đì đùng. Má than thầm, vậy là lại đánh nhau nữa rồi. Má nghe rõ từng tiếng súng rất quen thuộc. Dĩ nhiên má Năm chưa bao giờ đi lính, nhưng má cũng dễ dàng nhận ra tiếng súng M16 và tiếng AK47. Không những thế má còn có thể phân biệt được tiếng B40, tiếng M79 và tiếng đại bác 105 ly pháo kích nữa. Đối với người khác thì sao không biết, nhưng má thì có lạ gì với mấy thứ âm thanh giết người đó. Đúng ra trước tình cảnh như vậy má Năm nên bơi thật nhanh về nhà để tìm nơi trú ẩn, nhưng má đã không làm vậy. Ngược lại, má đậu xuồng lại trước nhà bà Ngàn Đô để nghe bài hát mà má thích nhất. Đó là bài Mùa Xuân Của Mẹ của nhạc sĩ Nhật Ngân được phát ra từ radio hoặc cassette trong nhà bà Ngàn Đô, mà má cũng không biết nữa. Má nhủ thầm, thôi thì kệ mẹ nó đi, thắc mắc làm cái con mẹ gì cho mệt chứ, miễn sao có nhạc hay để nghe là êm trời rồi. Má lắng nghe thật kỹ từng chữ từng câu của bài hát mà lòng buồn man mác. Đến đoạn cuối, má đã khóc khi ca sĩ Chế Linh hát:
"Mẹ ơi con hứa con sẽ trở về
Dù cho, dù cho xuân đã đi qua
Dù cho én từng bầy bay về ngàn
Dẫu gì rồi con cũng về
Chỉ bên mẹ là mùa xuân thôi."
Thế rồi má nhớ lại thời lịch sử Việt Nam cận đại, thời kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ cứu nước. Thời Pháp thuộc, ông Tám, ba của má, đã theo kháng chiến, rồi hy sinh trong một đêm mưa gió bão bùng ở thôn Bà Đầm. Đến thời đệ nhất và đệ nhị Cộng Hòa, anh Tư của má cũng ra đi không hẹn ngày về. Người ta nói là anh đã chết, nhưng cũng có người bảo rằng anh ấy đã tập kết ra Bắc. Còn chồng của má không có đi lính hoặc đi kháng chiến, mà cũng chết vì bị lạc đạn trong một lần đi ruộng làm lúa mướn ở rạch Điều. Thôi thì sao cũng được, vì má đâu có quyền năng hay biết phép mầu để thay đổi số mệnh của một kiếp người. Bởi vậy má không quan tâm, quan trọng hay quan ngại cái con mẹ gì hết, miễn sao không thấy chiếc quan tài là má vui rồi.
Má Năm nhớ trước lễ vu quy của má vài ngày, má có sang nhà bà Ngàn Đô để mượn vài món nữ trang. Bà Ngàn Đô mở hai cái hộp nhỏ màu đỏ, rồi đưa cho má chiếc đồng hồ vàng 18 và đôi bông tai cẩm thạch có mặt hình ông Phật. Má Năm ngại lắm, nên nói:
- Chị Ngàn Đô à, chị đừng lo. Sau khi đám cưới xong là em sẽ trả lại cho chị liền.
Bà Ngàn Đô cầm tay má thật lâu và ôm chặt má vào lòng, rồi nói:
- Năm à, chị chúc em trăm năm hạnh phúc. Sau này em có con thì phải nhớ đem cháu qua đây để chị được ẵm bồng cháu yêu của chị đó nghe. Con của em thì cũng như là con của chị mà, phải không em?
Má Năm cảm ơn bà Ngàn Đô, rồi ra về mà nước mắt cứ rưng rưng. Má hiểu lúc nào bà Ngàn Đô cũng thương má như là em ruột của bà.
Đám cưới xong, má Năm vội đem hai món nữ trang trả lại cho bà Ngàn Đô. Má vừa mở miếng vải gói nữ trang, thì bà Ngàn Đô nói liền:
- Năm à, chị chỉ lấy lại đôi bông tai. Còn cái đồng hồ, xem như là chị tặng quà cưới cho em đó. Đúng ra chị muốn tặng cả hai món này cho em, nhưng chị phải lấy lại đôi bông tai, vì đó là kỷ vật của má chị. Còn cái đồng hồ này, em cứ lấy đi. Đó là quà ba chị tặng cho chị nhân ngày chị thi đậu vào Trường Trung Học Công Lập Phong Phú. Bây giờ chị đã học xong, nên chắc là chị không cần đến cái đồng hồ này nữa đâu.
Thấy má Năm còn e ngại không dám nhận, nên bà Ngàn Đô lên giọng:
- Năm à, chị thương em lắm. Em mà không nhận món quà này là chị giận em luôn đó nghe.
Vậy là má Năm đành phải nhận món quà rất đắt tiền của bà Ngàn Đô, mặc dù má không biết là lấy cái đồng hồ này để làm gì nữa. Má nghĩ, thôi mình cứ nhận đại cho chị Ngàn Đô vui. Sau này có dịp, chẳng hạn như con gái chị lấy chồng hoặc con trai chị cưới vợ, thì mình tặng lại cho con chị cũng được mà.
Từ ngày có cái đồng hồ, má Năm giao cho chồng giữ để biết giờ mà đi làm lúa mướn. Từ đó chồng má Năm đi đâu cũng đem cái đồng hồ theo bên mình. Có điều ông không đeo nó trên tay, mà bỏ trong túi quần, vì đó là cái đồng hồ của phụ nữ. Mỗi lần muốn coi giờ, ông thường nhìn tới nhìn lui, xem có ai chung quanh hay không, vì sợ bị người ta cười. Lúc nào ông cũng gìn giữ cái đồng hồ rất cẩn thận. Ông sợ nó bị vô nước, bị trầy, bị hư, vì ông biết có ngày vợ chồng ông sẽ phải đem trả nó lại cho bà Ngàn Đô.
Vậy đó, rồi vài năm sau chồng má Năm mất, vì bị lạc đạn. Lúc ông vĩnh viễn ra đi, chiếc đồng hồ vàng của bà Ngàn Đô vẫn còn trong túi quần của ông. Chôn cất chồng xong, má Năm vội đem cái đồng hồ vàng trả lại cho bà Ngàn Đô. Má nói:
- Chị Ngàn Đô à, em nói thật là em không biết coi giờ. Bởi vậy em mong chị nhận lại cái đồng hồ này. Lúc chồng em còn sống, ổng thường đem nó theo bên mình để biết giờ đi làm lúa mướn, nhưng bây giờ thì không cần nữa.
Bà Ngàn Đô dúi cái đồng hồ vô túi áo bà ba của má Năm, rồi nói:
- Năm à, em hãy giữ cái đồng hồ lại đi để sau này làm lễ vật đi cưới vợ cho thằng Đô. Đến lúc đó, không biết chị có còn sống để đi đám cưới của nó không nữa. Ôi, cái thời buổi chiến tranh này, sống nay chết mai, ai mà biết được phải không em?
Ngoài cái đồng hồ vàng của bà Ngàn Đô, má Năm còn có một kỷ vật của chồng để lại. Đó là cái radio nhỏ hiệu Philips. Má Năm nhớ ba thằng Đô phải đi làm lúa mướn cả năm, mà không dám ăn, không dám xài, mới có đủ tiền để mua nó. Một buổi sáng, ba thằng Đô đang nghe tin tức, rồi ông vội đi làm lúa mướn, mà quên tắt cái radio. Má Năm đang nấu cơm, mà má nghe cô xướng ngôn viên trong radio nói cái gì:
- Thế là trong trận ác chiến này, giặc Mỹ ngụy chết vô số, còn bên ta hoàn toàn vô sự.
Má Năm nói lầm thầm:
- Đúng là khó tin thấy mẹ. Không lẽ đánh giặc hay dữ vậy sao trời? Cái gì mà bên ta hoàn toàn vô sự?
Má Năm muốn đi đến tắt cái radio, nhưng khổ nỗi là má đâu có biết phải làm sao cho nó hết nói bên ta hoàn toàn vô sự. Má Năm đang loay hoay bên cái radio mà không dám bấm nút nào, vì sợ bị hư. Bỗng má Năm thấy trước nhà có một toán lính, nên má giật mình than nho nhỏ, thôi chết mẹ tao rồi. Thế là Má Năm nhanh tay xách cái radio quăng vô lu gạo, rồi đậy nắp kín lại cho chắc ăn. Vậy đó mà khổ nỗi là cô xướng ngôn viên vẫn cứ nói bên ta hoàn toàn vô sự. Không biết làm sao, nên má Năm đành phải quỳ lạy trước lu gạo và cầu xin:
- Tao lạy mầy! Mầy làm ơn im miệng đi được không? Mầy mà còn nói nữa thì chắc là tao phải đi ở tù thấy mẹ tao luôn đó nghen.
Má Năm vừa đứng lên xoay mặt lại, thì thấy người lính trẻ đã đứng sừng sững trước lu gạo. Má Năm chưa kịp van xin, người lính trẻ đã lấy cái radio trong lu gạo ra, rồi tắt máy giùm cho má. Má Năm nhanh miệng la lên:
- Tui hoàn toàn vô sự à nghen.
Người lính trẻ phì cười, vì chắc là anh thấy thương cho má Năm quá trời quá đất luôn. Sau đó anh nói:
- Ừ, thì chị hoàn toàn vô sự mà. Có ai làm gì chị đâu?
Bây giờ cái đồng hồ vàng của bà Ngàn Đô tặng má Năm không còn chạy nữa và cái radio cũng đã bị hư. Má Năm cũng không muốn đem hai món này ra chợ Ô Môn để sửa, mặc dù không biết có sửa được không nữa. Má cất cái đồng hồ vô lon sữa bò, rồi để cạnh cái radio trên tủ thờ ba thằng Đô.
Sau khi mãn tang chồng, má Năm không bước đi bước nữa mà vẫn ở vậy nuôi con, mặc dù lúc đó má còn rất trẻ. Mà thật ra má Năm có muốn tái giá cũng khó, vì má không đẹp và cũng chẳng có học hành cái con mẹ gì hết. Còn nói về giai cấp xã hội thì má Năm thuộc loại bần cố nông, nghèo rớt mồng tơi. Tất cả tài sản vật chất của má chỉ là căn chòi lá và chiếc xuồng nhỏ. Vậy đó, nhưng bù lại đời sống tinh thần của má rất tốt, vì má còn có thằng Đô, thằng con duy nhất và cũng là báu vật của má. Giờ đây má Năm sống thui thủi với thằng Đô. Mỗi ngày má Năm bơi xuồng cặp theo bờ sông Ô Môn bán rau cải và trái cây để nuôi nó. Còn nó thì đi học ở Trường Tiểu Học Định Môn. Sau khi tan học, thằng Đô về nhà cô Út ở tới chiều để chờ má Năm đến rước nó.
Thế rồi cũng đến ngày 30/4/75, ngày đất nước được hoàn toàn giải phóng. Má Năm mừng lắm, vì má đã chờ cái ngày đó rất lâu. Thật ra má Năm đâu có cần biết ai thắng ai thua, ai mất ai còn, miễn sao đất nước hết chiến tranh, thằng con của má không phải đi lính là má vui rồi. Niềm vui của má Năm còn lớn hơn nữa khi năm sau thằng Đô thi đậu vào Trường Cấp III Ô Môn. Má Năm rất hãnh diện với bà con lối xóm, nhất là với gia đình bên người chồng quá cố của má. Thằng Đô không đẹp trai như ba nó, nhưng càng lớn nó càng cao và to con giống như cái tên Đô của nó. Mỗi ngày thằng Đô phải lội bộ đi học xa lắm, cũng gần mười cây số chứ đâu có ít. Gà vừa gáy canh năm là thằng Đô đã ra khỏi nhà. Có hôm má Năm nói để má bơi xuồng đưa nó đi học, vì thả xuồng theo con nước ròng cũng nhanh và tiện lợi lắm, thì nó nói:
- Dạ, con lớn rồi, con tự đi bộ được mà má. Hơn nữa con cũng muốn đi học chung với bạn cho vui.
Nghe thằng Đô nói vậy, má Năm ngạc nhiên lắm, vì theo má biết, ở xã Định Môn đâu có ai đi học ở Trường Cấp III Ô Môn. Đa số tụi nhỏ ở đây học chưa hết bậc tiểu học thì đã nghỉ rồi. Thằng Đô thông minh lắm, nó đọc được suy nghĩ của má, nên nó nói:
- Dạ, con thường đi học chung với bạn Thu Ngân, con bác Ba Biện ở rạch Điều.
Má Năm hỏi nhanh:
- Có phải bác Ba làm ruộng chung với ba con không?
Thằng Đô thưa:
- Dạ, con cũng không biết nữa, vì lúc ba mất, con còn nhỏ quá mà.
Má Năm nghĩ, vậy cũng tốt, ít ra cũng có đứa bạn chịu đi học chung với con mình. Bởi vậy má không thắc mắc nữa, mà chỉ nói:
- Đô à, con lớn rồi, nên con có bạn thì phải biết lễ phép với ba má người ta đó nghe. Còn đối với bạn, nhất là phái nữ thì con phải biết giữ lễ, phải biết lấy đạo đức làm đầu nghe con.
Thằng Đô nắm tay má, rồi khẽ đáp:
- Dạ, con hiểu mà má. Mấy cái này hồi con học lớp một là cô Ba Dương đã dạy con rồi. Cô còn dạy là khi ra đường mà gặp người lớn tuổi đáng bậc ông bà, cha mẹ, chú bác, cô dì thì phải biết lấy nón xuống và lễ phép cúi đầu chào nữa đó má.
Má Năm vừa ý lắm. Má không ngờ thằng Đô con của má biết nhiều như vậy. Bởi vậy má thầm nghĩ, ông bà ta dạy rất chí lý rằng, cho con tiền, không bằng cho con đi học, mặc dù má đâu có tiền để cho.
Hai Đô và Thu Ngân là hai đứa bạn học cùng cảnh ngộ. Nhà tụi nó rất nghèo và phải lội bộ đi học rất xa, nên càng lúc tụi nó càng thân và càng quý mến nhau hơn cũng đúng. Cứ cách vài ngày là Hai Đô xin phép má để qua rạch Điều chơi. Không cần phải hỏi, má Năm cũng biết nó đến nhà ai mà. Má chỉ dặn nó, qua đó phải biết lễ phép với người lớn. Hai Đô mừng lắm. Nó ôm hôn má nó, rồi vội vã ra khỏi nhà. Má Năm kêu nó lại để xách đôi dép đưa cho nó, rồi má nói:
- Cái thằng thật là… hễ nghe nói tới con Thu Ngân là quên cả má luôn.
Lần nào đến rạch Điều, Hai Đô và Thu Ngân cũng ra ngồi cạnh bờ ao. Khi thì hai đứa nó câu cá rô đồng, lúc thì tụi nó ngâm chân xuống ao cho mát. Rồi có một ngày, Hai Đô bạo gan rủ Thu Ngân qua nhà nó chơi. Thu Ngân mở đôi mắt tròn xoe thật to để lộ vẻ vui mừng ra mặt, nhưng rồi cô nói:
- Dạ, em cũng muốn vậy lắm, nhưng em không dám xin phép ba má em đâu.
Hai Đô suy nghĩ một chút, rồi nói:
- Bạn yên tâm đi, mình có cách mà. Nếu bạn tin mình thì để mình lo cho, bạn chịu không?
Thu Ngân đâu biết nói gì hơn, cô chỉ lí nhí nói vâng vâng dạ dạ vậy thôi.
Hai Đô thấy anh Hai Ánh, anh của Thu Ngân, đang tưới giàn trầu cách bờ ao không xa. Nó xách cần câu đi đến, rồi khen:
- Anh Hai giỏi quá! Giàn trầu này được tươi tốt cũng nhờ công anh đó.
Anh Hai Ánh dừng tay, rồi quay sang nói với thằng Đô:
- Ba má anh có tuổi rồi. Anh không làm thì ai làm bây giờ.
Thằng Đô đáp:
- Dạ, đúng rồi anh, phận làm con thì phải vậy mà, nhưng em công nhận là anh giỏi thật đó.
Thằng Đô không chờ anh Hai Ánh lên tiếng, mà nó mạnh dạn thưa tiếp:
- Anh Hai, em muốn rủ bạn Thu Ngân qua nhà em chơi. Bạn ấy cũng đã chịu rồi, nhưng bạn ấy không dám xin phép ba má. Vậy anh nói giúp giùm tụi em được không?
Anh Hai Ánh cười chọc quê thằng Đô, rồi trả lời:
- Chuyện nhỏ mà em, để anh nói với ba má anh giùm cho. Mà đến chiều là tụi em phải về đây nghe, vì sáng mai hai đứa còn phải đi học sớm nữa đó. Còn nữa nè, anh muốn là em phải đưa Thu Ngân trở về đây đàng hoàng. Hai đứa lấy chiếc xuồng nhỏ của anh giăng câu bơi qua Định Môn đi. Có gì anh sẽ nói là hai đứa có hỏi anh rồi.
Hai Đô mừng lắm. Nó không ngờ anh Hai của Thu Ngân dễ dãi như vậy. Nó cám ơn anh Hai rồi cùng Thu Ngân cho chiếc xuồng nhỏ tách bến rạch Điều. Hai Đô bơi mũi, Thu Ngân bơi lái băng qua sông Ô Môn để đến Định Môn, mà lòng nó không yên. Hai Đô muốn đi nhanh lắm để giới thiệu Thu Ngân với má nó, nhưng nó cũng rất muốn quay trở lại rạch Điều. Nó nghĩ, nó phải đích thân xin phép ba má của Thu Ngân mới đúng. Nó mới ngỏ ý đó với Thu Ngân, thì cô nói:
- Thôi, để lần sau cũng được mà anh. Hơn nữa anh đã nhờ anh Hai của em nói với ba má em rồi. Bây giờ quay trở lại để xin phép ba má, chắc gì anh Hai được vui. Anh làm vậy, biết đâu ảnh nghĩ, không lẽ tiếng nói của ảnh chẳng có ký lô nào hay sao?
Hai Đô nghe Thu Ngân phân tích cũng có lý, nên nó yên tâm mà bơi tiếp. Đến Vàm Nhon, Hai Đô lấy cây dầm khều dề lục bình nhỏ lại mép xuồng để ngắt hai cái bông tím. Sau đó nó thả cho hai cái bông trôi xuống lái xuồng và nói lớn:
- Bạn lấy hai cái bông này đi. Mình tặng bạn đó.
Thu Ngân nhanh nhẹn đưa tay vớt hai cái bông tím, rồi sung sướng nói:
- Dạ, mà em chỉ nhận một cái thôi. Còn cái kia là của anh, nhưng em giữ giùm cho anh luôn nghe.
Hai Đô cũng không vừa, nó đáp trả liền:
- Bạn giữ cái gì giùm mình cũng được, nhưng không được giữ trái tim mình đó. Trái tim của mình chỉ dành riêng cho má mình thôi.
Đến trưa, Hai Đô và Thu Ngân đã bơi xuồng tới gần nhà bà Ngàn Đô. Còn cách nhà bà Ngàn Đô vài chục thước là hai đứa nó đã nghe tiếng nhạc rồi. Hai Đô đề nghị:
- Hay là tụi mình đậu xuồng lại trước nhà bà Ngàn Đô để nghe hết bài hát này nghe bạn. Lúc trước má mình cũng thường làm như vậy đó.
Thu Ngân vui vẻ đáp:
- Dạ, em đã chịu qua nhà anh chơi, thì em sẽ chiều theo ý anh. Bây giờ anh là chủ, em là khách, nên anh muốn sao cũng được mà.
Hai Đô cho chiếc xuồng đậu lại, rồi đi xuống phía sau lái ngồi cạnh Thu Ngân. Tiếng hát của ca sĩ Duy Khánh quả thật là bất hủ và bất tử. Đúng là nghe buồn đứt ruột khi ông hát đoạn cuối bài Một Mai Giã Từ Vũ Khí của nhạc sĩ Nhật Ngân:
"Rồi anh sẽ dựng căn nhà xưa
Rồi anh sẽ đón cha mẹ về
Rồi anh sẽ sang thăm nhà em
Với miếng cau, với miếng trầu
Ta làm lại từ đầu
Rồi anh sẽ dìu em tìm thăm
Mộ bia kín trong nghĩa địa buồn
Bạn anh đó đang say ngủ yên
Xin cám ơn, xin cám ơn người nằm xuống
Để có một ngày
Có một ngày cho chúng mình
Ta lại gặp ta
Còn vòng tay mở rộng thương mến bao la
Chuông chùa làng xa, chiều lại vang
Bếp ai lên khói ấm tình thương
Bát cơm rau thắm mối tình quê
Có con trâu, có nương rau
Thiên đường này mơ ước bao lâu."
Nghe xong bài hát, Hai Đô và Thu Ngân tiếp tục bơi xuồng về nhà nó. Đến nhà, Hai Đô không thấy chiếc xuồng nhỏ của má, nên nó biết là má nó đi bán chưa về. Vậy nên nó đi xuống lái xuồng ngồi bên cạnh Thu Ngân, rồi bơi xuồng vòng qua cái đìa nhỏ để đến con đê. Hai Đô và Thu Ngân ngồi bên nhau dưới rặng trâm bầu trồng dọc theo bờ đê. Một ngọn gió chiều thoáng qua làm mát rượi tâm hồn đôi bạn trẻ. Trước mặt Hai Đô và Thu Ngân là cánh đồng bất tận, mênh mông bát ngát pha lẫn với mùi lúa chín làm xao xuyến lòng người.
Bỗng Thu Ngân đứng dậy. Cô vươn vai, rồi hỏi:
- Ruộng của ai mà nhiều quá vậy anh?
Hai Đô đứng lên chỉ tay xa tận chân trời, rồi đáp:
- Thì ruộng của bà Ngàn Đô chứ còn ai vô đây nữa trời. Bạn thấy không, chỗ cây gáo xa tít kia cũng còn là ruộng của bà Ngàn Đô nữa đó.
Hai Đô ngừng lại một chút, rồi tiếp:
- Ở đâu mình không biết, chứ ở cái xã Định Môn này thì có ai giàu và tốt bằng bà Ngàn Đô cho được. Bởi vậy mới nói, nếu bà Ngàn Đô mà đứng thứ Hai, thì không ai dám ngồi ở vị trí Chúa Nhật đâu nha bạn.
Nói xong Hai Đô và Thu Ngân sánh vai đi dọc theo bờ đê. Vừa đi Thu Ngân vừa hỏi:
- Bây giờ chính quyền không ưa mấy người nhà giàu, nhất là địa chủ. Đã vậy mà nhà bà Ngàn Đô cứ mở nhạc xưa hoài. Không khéo coi chừng bả bị bắt đi học tập cải tạo mút mùa lệ thủy luôn đó à nghen. Bộ bả không sợ chính quyền bắt bả sao anh?
Hai Đô lấy tay gãi đầu, rồi cười nói:
- Bạn nói giỡn chơi hoài. Ai dám bắt bả hả? Đúng là bạn không hiểu cái con mẹ gì hết. Mấy ông cán bộ còn ghé vô nhà bả để nghe nhạc xưa hoài nữa đó bạn.
Đứng trên cái gò của con đê, Hai Đô nhìn trời mây nước, rồi lén ngắm mái tóc dài mượt mà óng ả của Thu Ngân bay trong gió chiều. Nó gặp Thu Ngân mỗi ngày, nhưng không hiểu sao hôm nay nó cảm thấy cô ấy rất đẹp. Vừa đi trở lại chiếc xuồng, Hai Đô vừa nói:
- Thật tiếc quá! Chút nữa là bạn phải về rồi. Phải chi còn sớm, tụi mình bắt cua đồng và ốc bươu vàng về luộc chấm muối tiêu chanh, chắc là ngon lắm.
Thu Ngân đáp:
- Dạ đúng rồi anh, nhưng để đến cuối tuần, chắc lúc đó tụi mình sẽ có nhiều thời gian hơn.
Hai Đô và Thu Ngân bơi xuồng trở lại nhà nó, thì má nó đã về và cũng nấu xong bữa cơm chiều. Hai đứa nó vừa bước vào nhà là má nói với thằng Đô liền:
- Sao con rủ bạn tới nhà chơi mà không nói cho má biết trước? Nếu biết vậy, má đã mua con cá lóc nấu canh chua với trái thơm rồi.
Nói thì nói vậy, nhưng má cũng bảo Thu Ngân ngồi xuống ăn bữa cơm chiều với má và thằng Đô. Thu Ngân định từ chối, nhưng má thằng Đô cứ nài nỉ, nên cô đành phải ăn bữa cơm chiều với má. Bữa cơm thật đạm bạc, chỉ có cá lòng tong kho tiêu và rau muống luộc chấm với tương hột, nhưng ai cũng cảm thấy rất ngon. Thật đúng như nhạc sĩ Nhật Ngân đã viết trong ca khúc Một Mai Giã Từ Vũ Khí:
"Bếp ai lên khói ấm tình thương,
Bát cơm rau thắm mối tình quê."
Ăn xong, Thu Ngân muốn giúp má dọn dẹp và rửa chén, nhưng má nói:
- Không sao đâu con. Mấy cái này bác làm mỗi ngày mà. Thôi con về sớm đi để ba má con lo. Con nhớ cho bác gởi lời thăm ba má con luôn nghe.
Thu Ngân đáp:
- Dạ, nhưng bác biết ba má con nữa hả?
Thằng Đô chen vào:
- Má mình nói, ba mình và ba của bạn đi làm lúa mướn chung. Vậy chắc hai người cũng thân nhau lắm đó.
Hai Đô đưa Thu Ngân về đến nhà, thì nắng cũng đã tắt. Nó từ giã ba má cô và anh Hai Ánh, rồi ra về để sáng mai còn phải đi học sớm. Sau này, cuối tuần Thu Ngân thường qua nhà Hai Đô chơi. Hai đứa bơi xuồng đi bắt cua đồng và ốc bươu vàng cả ngày, có khi được nhiều gần đầy cả một khoang xuồng.
Thằng Đô học hành cũng được, nhưng má Năm dự tính chỉ cho nó học hết cấp ba. Má sợ nó học cao, rồi phải ra thành phố làm việc xa nhà, thì không có ai lo cho nó. Trong thâm tâm, má chỉ mong nó làm thầy giáo ở Trường Tiểu Học Định Môn cho gần nhà. Sáng má đi bán, nó đi dạy học. Chiều má nấu cơm cho nó ăn. Mẹ con có nhau như vậy là má vui rồi. Thế nhưng ước mơ nhỏ nhoi của má đã không thành, vì vừa mới thi xong học kỳ một của lớp 12, thằng Đô bị gọi đi nghĩa vụ quân sự. Mấy ngày trước khi thằng Đô lên đường, hai má con nó và Thu Ngân có ra bờ đê quỳ lạy mộ ông bà ngoại và mộ ba nó. Lạy xong, nó còn nhổ mấy bụi cỏ dại chung quanh ba ngôi mộ nữa.
Hôm thằng Đô từ giã má để lên đường sang Campuchia, má đã khóc hết nước mắt. Bà Ngàn Đô và Thu Ngân cũng nghẹn ngào. Cả xóm ai cũng buồn. Thấy vậy thằng Đô cười rồi nói để trấn an má:
- Má đừng lo. Con đi đánh quân Pôn Pốt xong là con về liền hà má.
Chỉ tội bà Ngàn Đô, bà nhét 100 đồng vô túi áo thằng Đô. Sau đó bà đưa cái bọc nylon có hai đòn bánh tét nhân chuối và cây dao nhỏ cho nó, rồi nói:
- Đi xe dọc đường mà có đói bụng, thì nhớ cắt bánh tét ra ăn nghe con. Bánh tét làm bằng nếp, nên ăn no rồi thì lâu đói lắm.
Còn Thu Ngân, cô đưa cho thằng Đô cái tập 100 trang và cây viết bic, rồi căn dặn nó thật kỹ:
- Đi đến nơi, về đến chốn, nghĩa là bằng mọi giá anh cũng phải trở về đây để gặp lại má và em nghe anh. Đến chỗ đóng quân rồi, thì anh nhớ phải viết thư về cho má và cho em liền đó. Anh biết là lúc nào em cũng đợi anh về mà.
Thằng Đô ôm hôn má và bà Ngàn Đô thật lâu. Nó vuốt nhẹ mái tóc dài của Thu Ngân, rồi khen: "Tóc bạn đẹp quá hà." Sau đó nó lên chiếc xe ba gác để ra chợ Ô Môn tập hợp với các bạn cùng đi nghĩa vụ quân sự với nó.
Thằng Đô đi rồi, Thu Ngân không về nhà, mà cô thả bộ dọc theo con đê làng như người mất hồn. Cô nhớ mới ngày nào hai đứa cùng ngồi dưới rặng trâm bầu, cùng thả bộ bên nhau, cùng bơi xuồng để bắt cua đồng và ốc bươu vàng. Vậy mà bây giờ… và cô đã khóc nức nở.
Lấy bằng tốt nghiệp cấp ba xong, Thu Ngân không tiếp tục việc học, mà trở thành cô giáo tiểu học. Thu Ngân xin dạy ở Trường Tiểu Học Định Môn, vì ở rạch Điều đã đủ giáo viên. Cô nghĩ vậy cũng tốt, để mỗi ngày cô có thể an ủi má thằng Đô cho má đỡ nhớ con. Ngày nào Thu Ngân cũng bơi xuồng đi dạy. Cô cố gắng đi thật sớm để thăm hỏi má Năm và gởi chiếc xuồng ở đó. Đến chiều, trước khi bơi xuồng về rạch Điều, Thu Ngân thường ăn cơm với má Năm cho má được vui. Cuối tháng nào Thu Ngân cũng trích ra phân nửa tiền lương của cô cho má Năm để má mua gạo và yên tâm, vì biết có người quan tâm đến má.
Còn má Năm, từ lúc thằng Đô đi rồi, má cũng đâu có cần phải đi bán để nuôi nó, nhưng ở nhà thì má buồn. Nhìn mấy cái tập học, viết chì, viết mực và cây thước, má cũng nhớ nó. Buổi chiều, đi bán xong, má cũng không muốn về nhà, mà thường ghé vô nhà bà Ngàn Đô để nghe nhạc, nhưng càng nghe thì má lại càng nhớ thằng con. Vừa nghe ca sĩ Duy Khánh hát bài Xuân Này Con Không Về của nhạc sĩ Nhật Ngân, mà má vừa khóc, nhất là đoạn mở đầu:
"Con biết bây giờ mẹ chờ tin con
Nghe pháo giao thừa rộn ràng nơi nơi
Năm trước con hẹn đầu xuân sẽ về
Nay én bay đầy trước ngõ, mà tin con vẫn xa ngàn xa."
Bà Ngàn Đô thương má Năm lắm, nên bà cũng khóc như má. Bà kêu má vô ăn cơm chung, rồi nói:
- Năm à, em có còn nhớ lúc em lấy chồng, chị đã nói, con em thì cũng là con chị hay không? Em tưởng chị vui lắm sao? Mười mấy năm nay, ngày nào chị cũng nhìn thằng Đô đi học trước nhà mà thấy thương và tội nghiệp cho nó mồ côi cha. Thôi em đừng khóc nữa. Ăn cơm xong rồi, thì ngủ lại đây với chị luôn nghe em.
Bà Ngàn Đô là vậy đó. Bà kêu má Năm đừng khóc, mà bà còn khóc lớn hơn má nữa, thì hỏi sao má hết buồn, hết nhớ thằng Đô cho được.
Mấy tháng đầu, khi thằng Đô mới lên Campuchia, nó thường viết thư thăm má, bà Ngàn Đô và Thu Ngân, nhưng bẵng đi cả năm không có tin tức gì của nó. Má với bà Ngàn Đô muốn gởi tiền cho nó xài và Thu Ngân muốn viết thư thăm nó, mà cũng không biết phải làm sao. Thế rồi một hôm có tin như sét đánh ngang tai, tin thằng Đô đã tử trận ở chiến trường Campuchia. Hôm đó đích thân ông xã trưởng xã Định Môn đã đến nhà báo tin buồn cho má Năm. Ông còn nói, các bạn cùng đơn vị đã chôn nó trên đó luôn rồi, chắc đường xá xa xôi và tình thế quá cấp bách, nên không thể đem xác nó về Việt Nam được. Sau đó ông an ủi má Năm và kêu má lên xã làm giấy tờ để nhận tiền tử của thằng Đô. Trước khi ra về, ông xã trưởng nghẹn ngào nói:
- Chị Năm à, đâu có ai muốn như vậy, nhưng dù sao chuyện cũng đã lỡ rồi. Ngày mai hay khi nào rảnh, chị lên xã để em giúp chị làm thủ tục nhận tiền nghe chị.
Thật ra, ông xã trưởng nói cái con mẹ gì, má Năm đâu có nghe và cũng đâu có cần phải hiểu. Má cũng đâu có cần phải làm giấy tờ hay thủ tục gì đâu. Má chỉ muốn thằng Đô lập tức trở về đây với má để má bơi xuồng đưa nó đi học và nấu cơm cho nó ăn. Những điều má Năm muốn đâu có phải là chuyện quá xa vời, vì đó là mong ước chính đáng của người làm má. Vậy mà ước mơ đơn sơ đó đã vượt quá tầm với của má Năm.
Từ khi thằng Đô tử trận, má Năm sống vật vờ như cỏ cây. Đã ba mươi năm qua rồi, mà má vẫn vậy, vẫn tin là thằng Đô con của Má chưa chết. Lúc nào má Năm cũng hy vọng, nên ngày nào má cũng ra trước cửa trông ngóng, mòn mỏi đợi thằng Đô về trong tuyệt vọng. Đâu phải chỉ riêng má Năm tin là thằng Đô chưa chết, mà ngay cả bà Ngàn Đô và Thu Ngân cũng nghĩ như vậy. Mỗi khi nấu món gì ngon bà Ngàn Đô cũng sang nhà rủ má Năm qua ăn cơm chung. Hôm nào bận đi ruộng thì bà sai đứa con gái lớn đem những món ngon đó cho má Năm. Bà Ngàn Đô căn dặn con gái rất kỹ:
- Con qua nhà dì Năm, thì nhớ đừng bao giờ nhắc đến thằng Đô nghe con.
Đứa con gái thưa với bà Ngàn Đô:
- Dạ, má yên tâm đi. Con hiểu mà má.
Còn Thu Ngân, vài tuần sau khi thằng Đô qua đời, cô đem thẻ học sinh của nó ra tiệm chụp hình Xường ở chợ Ô Môn để mướn người ta hoạ hình của nó ra hai tấm lớn. Cô cũng đến tiệm tạp hóa Xuân Nguyệt mua hai cái khung hình. Sau đó Thu Ngân cẩn thận cho hình thằng Đô vào hai cái khung, rồi đem một cái cho bà Ngàn Đô và một cái cho má Năm. Lúc đem hình thằng Đô cho má Năm, Thu Ngân nói:
- Má Năm à, má treo khung hình của anh Đô lên vách lá được rồi. Má không cần để hình của anh Đô lên tủ thờ chung với ba ảnh, vì con nghĩ là ảnh chưa chết đâu.
Má Năm ôm cái khung hình của thằng Đô vào lòng, rồi má khóc. Thấy vậy Thu Ngân an ủi:
- Anh Đô to con và phước lớn, mạng lớn nên ảnh không chết được đâu má. Hơn nữa cũng đâu có ai thấy xác của anh Đô. Bởi vậy con không tin là anh ấy đã chết.
Từ đó tấm thẻ học sinh ép nylon của thằng Đô lúc nào cũng nằm trong cái xách tay đựng đồ nghề dạy học của Thu Ngân. Nhiều khi đang dạy học, mà cô lấy tấm thẻ học sinh đó ra nhìn, rồi nói lẩm bẩm một mình, mà chẳng có học sinh nào hiểu nổi cô đang nói gì. Bởi vậy dám học trò của Thu Ngân thường nói, cô giáo của chúng nó càng ngày càng dỏm, vì tụi nó làm sao hiểu được tình cảm của cô giáo nó đã dành cho Hai Đô.
Sau khi mấy anh chị của Thu Ngân lập gia đình và ba má qua đời, cô dọn sang xã Định Môn ở với má Năm. Rồi không biết từ lúc nào Thu Ngân không gọi má Năm là bác, mà thân mật gọi là má Năm. Giờ đây má Năm đã già, nên cũng nghỉ bán. Còn Thu Ngân vẫn đi dạy bình thường. Mười mấy năm nay cũng có nhiều người mối mai, nhưng Thu Ngân nhất định không chịu. Cô quyết định ở vậy để săn sóc má Năm và chờ ngày Hai Đô trở về. Bà Ngàn Đô cũng thương Thu Ngân như bà đã thương Hai Đô. Ngoài tình thương dành cho cô, bà còn rất cảm phục lòng chung thủy và dạ sắt son của cô. Vậy nên bây giờ mỗi lần gặp Thu Ngân, bà cũng xưng má với cô luôn nữa. Có lần thấy Thu Ngân đi dạy học ngang trước nhà, bà hỏi:
- Thu Ngân à, má rất phục tấm lòng chung thủy của con, nhưng con cũng đã lớn rồi, bộ con không nghĩ đến chuyện lập gia đình sao con?
Thu Ngân nắm tay bà Ngàn Đô và thưa:
- Dạ, con biết mà má, nhưng con không thể quên anh Đô được. Hơn nữa con vẫn tin là anh ấy chưa chết và con còn phải chăm sóc cho má Năm nữa mà.
Bà Ngàn Đô gật đầu, rồi nói tiếp:
- Trong đời má, má chưa thấy người con gái nào được như con. Thật là con làm cho má rất cảm động.
Thu Ngân cúi đầu khẽ đáp:
- Dạ, con cảm ơn má Ngàn Đô đã quá khen, nhưng hiện tại con sống để săn sóc má Năm và hy vọng một ngày nào đó, anh Đô sẽ trở về.
Hôm nay là ngày giỗ ba thằng Đô, nhưng má Năm đã già, nên má cũng không nhớ là đám giỗ lần thứ mấy, mà má chỉ nhớ, thằng Đô đã ra đi ba mươi năm rồi. Hôm đó bà Ngàn Đô đem hai đòn bánh tét nhân đậu sang nhà má Năm, rồi bà nói với má:
- Hôm thằng Đô đi, chị có cho nó hai đòn bánh tét nhân chuối, nhưng chắc nó không thích nên nó đã không chịu về.
Sau đó bà Ngàn Đô đi đến ngắm tấm hình của thằng Đô treo trên vách lá, rồi nói tiếp:
- Đô à, con có còn nhớ má và thương má thì hãy mau về đây ăn bánh tét nhân đậu nè con.
Má Năm cắm mấy cây nhang lên bàn thờ ba thằng Đô, rồi lấy cái lon sữa bò có cái đồng hồ vàng của bà Ngàn Đô xuống. Sau đó má nói với bà Ngàn Đô:
- Chị Ngàn Đô à, em thấy con Thu Ngân chung tình với thằng Đô như vậy, nên em muốn tặng cái đồng hồ này lại cho nó, nhưng em phải hỏi chị một tiếng. Không biết chị có chịu không?
Bà Ngàn Đô kêu Thu Ngân lại gần, rồi tự tay bà đeo chiếc đồng hồ vàng vô cho cô. Sau đó bà nói với má Năm:
- Em làm như vậy là đúng rồi. Chị rất tán đồng. Lúc trước chị cũng có nói là em giữ cái đồng hồ này để làm lễ vật đi cưới vợ cho thằng Đô. Con Thu Ngân xứng đáng nhận món quà này mà, chỉ tiếc là cái đồng hồ này đã chết máy rồi.
Thu Ngân thấy món quà của hai má tặng cho cô rất giá trị, nên cô không dám nhận, nhưng cô cũng biết là cô không thể từ chối. Vậy nên cô nói:
- Dạ, con cảm ơn má Ngàn Đô và má Năm.
Từ khi có cái đồng hồ của hai má tặng, lúc nào Thu Ngân cũng đeo nó trên tay, trừ những lúc cô đi tắm hoặc rửa chén bát. Cô quý cái đồng hồ này lắm, không phải vì nó mắc tiền, mà vì đó là lễ vật cưới vợ của anh Đô và là tình thương của hai má dành cho con dâu. Cũng vì thế nên Thu Ngân quyết định không đem cái đồng hồ ra chợ Ô Môn để sửa. Cô nghĩ quà của hai má tặng thì mắc rẻ hay tốt xấu gì, mình cũng nên giữ nguyên như vậy. Bởi vậy nhiều khi có người hỏi giờ, cô cũng giả vờ nhìn đồng hồ, rồi đoán giờ mà nói.
Mấy hôm nay cả chợ Vàm Nhon ồn ào náo nhiệt không phải vì xuân đã về và Tết sắp đến, mà họ bàn tán xôn xao vì có người nói là đã thấy thằng Đô trở về. Chú Ba, xã trưởng xã Định Môn hỏi nhanh:
- Trời, thật không? Bộ thằng Đô con của chị Năm đã về thật hả? Vậy nó đang ở đâu, để tui đi báo tin cho chị Năm hay liền?
Chị Tám bán cá trả lời:
- Hồi sáng này tui bơi xuồng đem cá ra chợ bán, hình như tui thấy thằng Đô đang đứng trên cầu Vàm Nhon, mà không biết có phải là nó thật không nữa.
Vậy là chú Ba vội nhanh chân đạp xe chạy về xã Định Môn để báo tin mừng với má Năm và bà Ngàn Đô. Sau đó chú cũng đạp xe tới Trường Tiểu Học Định Môn để báo với Thu Ngân luôn nữa.
Thu Ngân liền xin phép ông hiệu trưởng để ra về, vì nhà có việc quan trọng. Thu Ngân về đến nhà thì má Năm và má Ngàn Đô đã chờ cô sẵn trên chiếc xuồng nhỏ của má Năm. Má Ngàn Đô bơi mũi, Thu Ngân bơi lái, còn má Năm ngồi giữa khoang xuồng mà lòng nóng như lửa đốt. Chưa đầy nửa giờ sau, má Năm, má Ngàn Đô và Thu Ngân đã đến chân cầu Vàm Nhon, nhưng cả ba đều thất vọng, vì chẳng thấy ai đứng trên cầu. Thu Ngân định cột xuồng vô chân cầu để lên bờ tìm Hai Đô, rồi cô bất chợt la lên:
- Hai má ơi, con thấy anh Đô rồi. Ảnh đang nằm dưới dạ cầu kìa.
Dưới dạ cầu Vàm Nhon, gã đàn ông đang nằm thiu thiu chuẩn bị ngủ trưa, vì trời nóng quá, thì bỗng gã nghe có tiếng gọi:
- Hai Đô! Có phải con không vậy? Sao con không chịu về nhà, mà lại nằm ngủ ở đây?
Gã đàn ông dụi mắt, rồi cười cười mà không trả lời. Thì ra gã chỉ là một thằng khờ vô gia cư tạm trú dưới chân cầu.
Má Năm không chịu thua, nên nói:
- Má nè con. Bộ con không nhớ má sao?
Gã khờ ngờ ngợ nhìn má Năm, rồi gã lại cười cười.
Nãy giờ má Ngàn Đô và Thu Ngân không hỏi han gì, nhưng họ quan sát gã khờ rất kỹ. Họ tin chắc gã khờ đó chính là Hai Đô, nhưng có lẽ gã đã bị mất trí nhớ. Bất chợt Thu Ngân nắm tay gã khờ kéo xuống xuồng, rồi nói:
- Anh Đô xuống xuồng về nhà với em và hai má nghe. Anh nhớ anh bơi mũi và em bơi lái không? Anh cũng thường hay ngắt bông lục bình để tặng em nữa đó.
Gã khờ không rút tay lại, nhưng gã cũng chẳng nói chẳng rằng, mà cười cười, rồi ngoan ngoãn bước xuống xuồng theo lời nói của Thu Ngân.
Vừa bơi xuồng, má Ngàn Đô vừa nhìn gã khờ, rồi hỏi:
- Trên đường lên Campuchia, con có đói bụng không? Con có ăn hai đòn bánh tét nhân chuối của má cho không vậy?
Gã khờ không buồn nghe má Ngàn Đô hỏi và gã cũng không trả lời hay trả vốn gì cho má hết. Bù lại gã đưa tay vói vói xuống nước như muốn ngắt mấy cái bông lục bình tim tím. Thấy vậy Thu Ngân vội ngắt vài cái bông tím đưa cho gã, thì mắt gã sáng lên như muốn tỏ lòng biết ơn cô, nhưng rồi gã cũng không nói gì.
Bây giờ má Năm, má Ngàn Đô và Thu Ngân đã tin chắc gã khờ là Hai Đô. Họ nghĩ, chắc là Hai Đô bị khủng hoảng tinh thần trong khi đánh giặc ở Campuchia, nên nhất thời bị mất trí nhớ. Cả ba người đều tin chắc rằng, chỉ cần chăm sóc Hai Đô đàng hoàng, chỉ cần gợi lại chuyện xưa, thì có ngày Hai Đô sẽ được phục hồi trí nhớ.
Từ khi về ở với má Năm và Thu Ngân, gã khờ lộ niềm vui thấy rõ, bằng chứng là lúc nào gã cũng cười. Mỗi sáng sớm Thu Ngân đi dạy là gã đi theo. Cô vô lớp thì gã đứng chờ bên ngoài. Có hôm Thu Ngân nói với gã:
- Anh Hai về nhà chơi với má đi. Em dạy học xong là em về liền hà.
Không biết gã khờ có hiểu gì không, nhưng gã đã không trả lời, mà chỉ cười cười, rồi tiu nghỉu ra về. Từ đó học trò của Thu Ngân không bao giờ thấy gã khờ đứng trước cửa lớp của cô nữa. Bỗng Thu Ngân thấy mình hơi quá đáng, nên cô đâm ra hối hận, vì đôi khi cô cũng muốn được nhìn gã khờ cho đỡ nhớ. Còn gã khờ nghĩ gì thì không ai hiểu nổi. Không được đến trường học thì gã đi nơi khác. Vậy nên cứ trưa nắng là gã thả bộ ra con đê làng Định Môn để hóng gió. Lúc thì gã ngồi thu mình dưới rặng trâm bầu như sư tử đang rình mồi. Khi thì gã đứng trên gò của con đê để ngắm trời mây nước. Nhiều lần gã cũng đưa mắt nhìn xa xăm đến tận cây gáo, chỗ hết bờ ruộng của má Ngàn Đô, rồi không biết nghĩ sao, mà gã lại cười. Có hôm gã thấy con cá lóc rất lớn đang lội dưới đìa, nên gã vội nhảy xuống để chụp nó. Dĩ nhiên là con cá lóc chạy thoát. Sau đó gã leo lên ngồi thở hổn hển trên cái gò, rồi chỉ tay xuống dưới đìa và nói:
- Lần này hên cho mầy đó. Lần sau tao bắt được mầy thì tao nấu canh chua cá lóc với trái thơm cho má và bạn học của tao ăn luôn.
Cũng có hôm Thu Ngân dạy học về rồi, mà gã khờ còn ở ngoài đồng. Khi cô tìm được gã thì túi áo và túi quần của gã đầy cả cua đồng và ốc bươu vàng.
Giờ đây, tuy nhà má Năm không có tiếng nói của gã khờ, nhưng không vì thế mà mất niềm vui. Chỉ tội má Năm, vì người ta đồn rằng thằng Đô đã về, thì má lấy cái con mẹ gì để trả lại cho chính quyền số tiền tử của nó. Cũng vì vậy mà má Ngàn Đô và Thu Ngân, mỗi người phải bỏ ra mười triệu để lì xì cho nhân viên của xã Định Môn, với hy vọng là họ sẽ không làm khó má Năm. Phải công nhận chú Ba, xã trưởng xã Định Môn là người rất tốt. Chú ghé nhà má Năm chúc Tết và sẵn đó chú nói với má:
- Chị Năm đừng lo nghĩ nhiều, chị cứ yên tâm đi. Em còn sống đây, thì sẽ không có ai dám làm khó dễ gì chị đâu. Nếu nó thật là thằng Đô thì em tin chắc rằng có lúc nó sẽ nhớ lại thôi chị.
Hôm nay là ngày đưa ông Táo về trời. Vậy chỉ còn một tuần nữa là Tết, nên má Năm, Thu Ngân và gã khờ đi thăm mộ, sẵn đó dọn dẹp chung quanh cho sạch sẽ để sáng mùng một đem mâm cơm ra cúng. Đúng ra má Năm và gã khờ đã ra thăm mộ từ sáng, nhưng vì phải chờ Thu Ngân đi chợ Ô Môn về để đi chung, nên đến chiều chiều ba người mới ra đó. Má Năm dọn dĩa trái cây và đốt mấy cây nhang, rồi khấn:
- Ba má và ba thằng Đô có linh thiêng thì mau về phù hộ cho thằng Đô tỉnh lại để em và Thu Ngân, vợ nó, được vui vẻ và hạnh phúc bên nhau.
Gã khờ đang đứng kế Thu Ngân. Gã thấy cô quỳ lạy nên gã cũng làm theo. Bỗng một luồng gió nhẹ mát lạnh thoảng qua như có hồn ai đó nhập vào gã khờ. Ngọn gió làm cho mái tóc dài mượt mà óng ả đã bạc màu sương gió của Thu Ngân bay vào mặt gã. Sau đó, không biết theo phản xạ tự nhiên hay nghĩ sao mà gã khờ nắm chặt mái tóc của Thu Ngân, rồi khen: "Tóc bạn đẹp quá hà."
Nghe câu nói của gã khờ, mắt Thu Ngân sáng lên. Cô biết gã khờ, mà không, phải nói là Hai Đô đã tỉnh lại. Thu Ngân chưa kịp nghĩ hoặc nói gì, thì gã khờ đã đến bên cạnh má Năm. Má Năm sung sướng biết là mùa xuân của má đang về khi gã nắm lấy tay má và âu yếm nói tiếp: "Trời gần tối rồi, thôi mình về nghe… má."
VIẾT TẠI PHÚ QUỐC
30 tháng 3 năm 2022
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét