18/11/10

Ngày 16/01/2010 chúng tôi khiếu nại lần 3

Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam

Độc lập - Tự Do - Hạnh Phúc

------------------

ĐƠN KHIẾU NẠI VỀ THI HÀNH ÁN

(Lần 3)

Tp. Hồ Chí Minh ngày 16 tháng 01 năm 2010

Kính gởi : - VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TP. HỒ CHÍ MINH

- TRƯỞNG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TP .HỒ CHÍ MINH

- CHẤP HÀNH VIÊN NGUYỄN KIM LAN

- Căn cứ các quy định theo Luật tố tụng dân sự

- Căn cứ các quy định tại điều 47, điều 75 Luật Thi hành án dân sự 2008.

- Căn cứ Quyết định Thi hành án theo đơn yêu cầu số 384/THA-YC ngày 04/06/2007 của Thủ trưởng Thi hành án dân sự TP. Hồ Chí Minh.

- Căn cứ vào công văn số 1389/THA ngày 17/12/2009

Tôi tên : Lê Minh Chí

Địa chỉ : 529/99 Huỳnh Văn Bánh, P.14, Phú Nhuận. Số CMND : 023007107

Tôi tên : Đào Thị Lan

Địa chỉ : 529/99 Huỳnh Văn Bánh, P.14, Phú Nhuận. Số CMND : 021712258

Điện Thoại : 38444828 - 0903613364

Là người được thi hành án theo Quyết Định số 602/2007/QĐST-CNTT-KDTM ngày 16/04/2007 của Toà Án Nhân Dân Tp. Hồ Chí Minh

CHÚNG TÔI KHIẾU NẠI

Theo công văn số 1389/THA ngày 17/12/2009 của Chấp hành viên gởi cho chúng tôi trích dẫn điều 75 luật thi hành án dân sự 2008 (LTHADS) để giải thích về việc tạm dừng thi hành án chờ quyết định của Toà án là phù hợp với trình tự thủ tục thi hành án theo quy định của pháp luật. Chúng tôi xin trích dẫn lại đầy đủ điều 75 LTHADS như sau :

“Trường hợp cưỡng chế đối với tài sản của người phải thi hành án mà có tranh chấp với người khác thì Chấp hành viên tiến hành cưỡng chế và yêu cầu đương sự, người có tranh chấp khởi kiện tại Toà án hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết. Chấp hành viên xử lý tài sản đã kê biên theo quyết định của Toà án, cơ quan có thẩm quyền.

Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày Chấp hành viên yêu cầu mà đương sự, người có tranh chấp không khởi kiện tại Toà án hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết thì tài sản được xử lý để thi hành án theo quy định của Luật này.”

Chúng tôi nhận thấy như sau :

Phải hiểu chữ “khởi kiện” trong điều 75 LTHADS như thế nào? Theo điều 3 Luật tố tụng dân sự (LTTDS) “Bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng dân sự : mọi hoạt động tố tụng dân sự của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, của cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan phải tuân theo các quy định của bộ luật này.” Như vậy pháp luật đã quy định người khởi kiện phải theo các quy định của bộ LTTDS. Do đó chữ “khởi kiện” trong điều 75 LTHADS phải hiểu là “khởi kiện phải theo các quy định của bộ LTTDS”. Nói cách khác người khởi kiện không theo các quy định của bộ LTTDS là không khởi kiện.

Căn cứ vào các điều sau đây : điều 167 “Thủ tục nhận đơn khởi kiện”, điều 168 “Trả lại đơn khởi kiện”, điều 170 “Khiếu nại và giải quyết khiếu nại về việc trả lại đơn khởi kiện”, điều 171 “Thụ lý vụ án”, điều 391 “Quyết định, hành vi trong tố tụng dân sự có thể bị khiếu nại”, điếu 392 “Quyền, nghĩa vụ của người khiếu nại”, điều 393 “Quyền, nghĩa vụ của người bị khiếu nại”, điều 394 “Thời hiệu khiếu nại” trong LTTDS thì người khởi kiện sau khi nhận được biên nhận hồ sơ của Tòa án phải cung cấp được một trong các giấy tờ sau đây của Toà án :

1/ Thụ lý của Toà án (biên lai nộp tiền tạm ứng án phí)

2/ Văn bản của Toà ghi rõ lý do trả lại đơn khởi kiện

3/ Nếu có khiếu nại : Chánh án Toà giữ nguyên việc trả lại đơn khởi kiện; hoặc nhận lại đơn khởi kiện và tiến hành việc thụ lý

4/ Giải trình về quyết định, hành vi trong tố tụng dân sự bị khiếu nại

Nếu hết thời hiệu khiếu nại là 15 ngày mà người khởi kiện không đưa ra được một trong các giấy tờ trên của Toà án thì người khởi kiện đã khởi kiện không theo các quy định của bộ LTTDS

Trường hợp cụ thể của chúng tôi :

1/ Chúng ta đã thấy rõ Cty TNHH XNK Hưng Lợi Bá là người tranh chấp tài sản kê biên đã không đưa ra được bất kỳ một trong các giấy tờ trên của Toà án. Như vậy người tranh chấp đã không khởi kiện ra Toà án và việc không khởi kiện này đã quá 30 ngày kể từ ngày 17/8/2009 là ngày nhận đơn kiện của Toà án nhân dân Quận 12. Căn cứ điều 75 Luật THADS thì tài sản kê biên phải được tiếp tục xử lý theo quy định.

Vì vậy trong trường hợp này dùng điều 75 LTHADS là để tiếp tục thi hành án chớ không phải để tạm dừng thi hành án.

2/ Hơn nữa cũng theo điều 75 “Chấp hành viên xử lý tài sản đã kê biên theo quyết định của Toà án, cơ quan có thẩm quyền” trong khi Toà chưa thụ lý và cũng chưa có Quyết định nào thì Chấp hành viên phải thực thi theo Luật THADS trong đó ghi rõ theo khoản 5 điều 47 Luật THADS “Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày thu được tiền, Chấp hành viên phải thực hiện việc thanh toán tiền thi hành án quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này.” Có phải vì sợ vi phạm điều 75 LTHADS mà Chấp hành viên đã vi phạm điều 47 LTHADS?

Vì các lý do trên chúng tôi không đồng ý với công văn số 1389/THA ngày 17/12/2009 của Chấp hành viên về việc tạm dừng thi hành án.

Vì vậy, chúng tôi đề nghị được tiếp tục thi hành án bằng cách chuyển trả số tiền người đã mua tài sản và đã nộp tiền vào Thi hành án dân sự TP. Hồ Chí Minh cho chúng tôi theo như biên bản làm việc tại Thi hành án dân sự TP. Hồ Chí Minh ngày 24/06/2009 và khoản lãi phát sinh do tạm dừng thi hành án cũng phải được tính đầy đủ theo như Quyết Định của Toà án về cách tính lãi suất. Khoản lãi phát sinh được tính kể từ ngày 28/6/2009 theo quy định tại khoản 5 điều 47 Luật thi hành án dân sự 2008 (10 ngày kể từ ngày người mua tài sản chuyển tiền vào Thi hành án dân sự TP. Hồ Chí Minh).

Kính mong các cơ quan chức năng sớm xem xét giải quyết cho chúng tôi theo đúng pháp luật.

Xin trân trọng kính chào.

Gởi kèm các bản sao : Người làm đơn

- Quyết Định Thi Hành Án

- Quyết Định của Toà Án Nhân Dân TP.HCM

- Biên bản làm việc ngày 11/08/2009 tại THA

- Biên bản làm việc ngày 24/06/2009 tại THA

- Công văn số 1389/THA ngày 17/12/2009

Nơi nhận :

- Như trên

- Lưu

LÊ MINH CHÍ ĐÀO THỊ LAN

Không có nhận xét nào :