![]() |
| Ảnh minh hoạ |
Từ bài viết trên The New York Times, "Nixon’s Vietnam Treachery," Lê Minh Nguyên tóm dịch ngày 02/01/2017
"Tất nhiên, không ai có thể đảm bảo rằng, không có Nixon, cuộc đàm phán sẽ được tiến hành, chưa nói đến việc kết thúc chiến tranh. Nhưng TT Johnson và các cố vấn của ông, ít nhất, tin tưởng vào sứ mệnh của mình và triển vọng cho sự thành công."
Nếu đúng như vậy, TT Johnson và các cố vấn của ông thật là ảo tưởng. Xin trích vài đoạn trong Bên Thắng Cuộc để chứng minh cho suy nghĩ này, mà tôi tin tác giả nói đúng.
"Chính ý thức hệ đã làm cho những người cộng sản ở nước nhỏ tự huyễn hoặc về sứ mệnh 'tiền đồn' đi đến chỗ bị hụt hẫng khi bị đem ra mặc cả cho quyền lợi của các siêu cường khác."
Theo tác giả cuộc chiến giải phóng miền Nam không phải là chủ trương của Liên Xô hay Trung Quốc, mà từ lãnh đạo Hà Nội với sự quyết tâm của Lê Duẩn.
"Nếu như khi ở miền Nam, ông Lê Duẩn chỉ nghĩ đến người Mỹ và kẻ thù trực tiếp của ông, “chính quyền tay sai” Ngô Đình Diệm, thì khi ra tới Hà Nội, theo ông Đậu Ngọc Xuân: “Anh Ba đánh giá, muốn đánh Mỹ thì trước tiên phải có ba cái không sợ: không sợ Mỹ, không sợ Liên Xô, không sợ Trung Quốc. Ông Hoàng Văn Hoan nghe, tròn mắt: sao nói không sợ Trung Quốc?”...
Lê Duẩn tâm sự: “Khi ta chủ trương giải phóng miền Nam, hai ông bạn lớn đã làm anh rất đau đầu. Liên Xô sợ mình đánh sẽ nổ ra chiến tranh thế giới thứ III; Trung Quốc muốn mình trường kỳ mai phục ‘chờ Trung Quốc mạnh sẽ đẩy Mỹ xuống Biển Đông’. Anh không để mất lòng ai nhưng lúc nào cũng phải giữ cho đúng tính chất độc lập, tự chủ của dân tộc Việt Nam”. Trên thực tế, lập trường của Trung Quốc đối với cuộc chiến tranh ở miền Nam Việt Nam đã thay đổi vào giữa thập niên 1960."
Nhà văn Vũ Thư Hiên mô tả sự huyễn hoặc đó như cơn lên đồng vĩ đại.
Nếu đúng như vậy, TT Johnson và các cố vấn của ông thật là ảo tưởng. Xin trích vài đoạn trong Bên Thắng Cuộc để chứng minh cho suy nghĩ này, mà tôi tin tác giả nói đúng.
Ngày 7-4-1965, Tổng thống Johnson tuyên bố tại Baltimore: “Mỹ sẵn sàng thương lượng không điều kiện”. Cuối tháng 12-1965, người Mỹ cử Harriman, một nhà ngoại giao, tới Ba Lan để nhờ Ba Lan làm trung gian thương lượng với Hà Nội.
Ngày 2-1-1966, J. Mikhalowski, thứ trưởng kiêm tổng thư ký Bộ Ngọai giao Ba Lan, tới Hà Nội và thông báo với Thủ tướng Phạm Văn Đồng và Chủ tịch Hồ Chí Minh: Mỹ rất linh họat. Họ sẵn sàng tìm mọi cách để thương lượng. Mikhalowski nài nỉ: “Cần phải có một sáng kiến. Phải tiến lại với những ý kiến chứng tỏ chúng ta muốn hòa bình, và qua đó các đồng chí sẽ tranh thủ được dư luận thế giới về mình”. Nhưng cả Thủ tướng Phạm Văn Đồng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đều cự tuyệt.
Ngày 1-7-1966, tại Hà Nội, Sainteny cho biết: “Mỹ đang tìm một giải pháp để khỏi mất thể diện và chính Việt Nam mới ở thế thắng. Mỹ đã bị anh bại. Đối với một nước nhỏ mà làm cho Mỹ không thực hiện ý đồ là đã ở trong thế thắng rồi”. Rồi Sainteny thuyết phục Phạm Văn Đồng: “Cần nghĩ đến chiến tranh nhưng cũng cần nghĩ đến hòa bình. Một ngày nào đó sẽ phải thương lượng”. Đúng lúc ấy, Hồ Chí Minh được mô tả là đã bước vào phòng, cắt ngang cuộc gặp giữa Sainteny và Phạm Văn Đồng: “Nếu ông có g̣ặp người Mỹ, ông hãy nói cho họ rằng chúng tôi không sợ Mỹ, chúng tôi sẽ chiến đấu đến cùng, dù có phải hy sinh tất cả”. Hôm sau, ngày 5-7-1966, trong cuộc tiếp chính thức, Hồ Chí Minh nói với Sainteny: “Chúng tôi hiểu đế quốc Mỹ. Chúng tôi biết sức mạnh của họ. Họ có thể san bằng Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Bắc Ninh và các thành phố khác. Điều đó không hề làm yếu quyết tâm chiến đấu đến cùng của chúng tôi.”
Từ năm 1967, người Mỹ bắt đầu thiết lập một kênh liên lạc với Việt Nam qua người Pháp. Giữa tháng 7-1967, Henry Kissinger trở thành người trung gian khởi động tiến trình thương lượng. Cho đến lúc ấy, người Mỹ không hề biết rằng, ông Lê Duẩn đang có trong tay một kế hoạch đầy tham vọng mà về sau được các nhà báo Mỹ gọi là “Tet Offensive” và các văn kiện chính thức của Hà Nội gọi là “Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân-1968”....---
Washington đã từng yêu cầu thương lượng từ năm 1965, nhưng chỉ sau Mậu Thân, Hà Nội mới bắt đầu đàm phán. Đề nghị thương lượng của tổng thống Mỹ Lyndon B. Johnson đã được Hà Nội chấp nhận “trong vòng 72 giờ đồng hồ”. Giữa W. Averell Harriman, Cyrus R. Vance và Lê Đức Thọ đã có những cuộc thương lượng công khai và ngầm nhưng không có một thỏa thuận nào đạt được trong cái năm Mậu Thân máu lửa ấy.
Ngày 20-12-1968, một tháng trước khi nhậm chức Tổng thống, Richard Nixon đã gửi một thông điệp tới Hà Nội nói rằng ông sẵn sàng để tiến hành các cuộc đối thoại nghiêm túc; nếu Hà Nội mong muốn “trao đổi một số ý tưởng chung trước ngày 20-1 (ngày Nixon nhậm chức), các ý kiến này sẽ được xem xét với một thái độ mang tính xây dựng và đảm bảo bí mật tối đa”. Nhưng “Phúc đáp của miền Bắc Việt Nam ngày 31-12-1968 hầu như không quan tâm gì đến danh dự và tự trọng. Họ nêu một cách thẳng thừng hai yêu cầu cơ bản: Đơn phương rút toàn bộ lực lượng quân đội Hoa Kỳ và thay thế cái mà Hà Nội gọi là ‘bè lũ Thiệu-Kỳ-Hương’, cụm từ miệt thị chuẩn mà Hà Nội dùng để gọi giới lãnh đạo Sài Gòn” (hết trích)Còn lý do tại sao Hà Nội quyết "chiến đấu đến cùng, dù có phải hy sinh tất cả" cũng được tác giả lý giải,
"Chính ý thức hệ đã làm cho những người cộng sản ở nước nhỏ tự huyễn hoặc về sứ mệnh 'tiền đồn' đi đến chỗ bị hụt hẫng khi bị đem ra mặc cả cho quyền lợi của các siêu cường khác."
Theo tác giả cuộc chiến giải phóng miền Nam không phải là chủ trương của Liên Xô hay Trung Quốc, mà từ lãnh đạo Hà Nội với sự quyết tâm của Lê Duẩn.
"Nếu như khi ở miền Nam, ông Lê Duẩn chỉ nghĩ đến người Mỹ và kẻ thù trực tiếp của ông, “chính quyền tay sai” Ngô Đình Diệm, thì khi ra tới Hà Nội, theo ông Đậu Ngọc Xuân: “Anh Ba đánh giá, muốn đánh Mỹ thì trước tiên phải có ba cái không sợ: không sợ Mỹ, không sợ Liên Xô, không sợ Trung Quốc. Ông Hoàng Văn Hoan nghe, tròn mắt: sao nói không sợ Trung Quốc?”...
Lê Duẩn tâm sự: “Khi ta chủ trương giải phóng miền Nam, hai ông bạn lớn đã làm anh rất đau đầu. Liên Xô sợ mình đánh sẽ nổ ra chiến tranh thế giới thứ III; Trung Quốc muốn mình trường kỳ mai phục ‘chờ Trung Quốc mạnh sẽ đẩy Mỹ xuống Biển Đông’. Anh không để mất lòng ai nhưng lúc nào cũng phải giữ cho đúng tính chất độc lập, tự chủ của dân tộc Việt Nam”. Trên thực tế, lập trường của Trung Quốc đối với cuộc chiến tranh ở miền Nam Việt Nam đã thay đổi vào giữa thập niên 1960."
Nhà văn Vũ Thư Hiên mô tả sự huyễn hoặc đó như cơn lên đồng vĩ đại.
Đó là điều không cần phải chứng minh. Cuộc cách mạng giải phóng dân tộc đã thành công rực rỡ trong sự thay thế những ông chủ da trắng bằng những ông chủ da vàng. Cái khác là cách cai trị của những ông chủ mới tinh tế hơn những ông chủ cũ nhiều. Mọi sự bóc lột, đè nén giờ đây được tiến hành trong tiếng kèn hoan hỉ ngợi ca cuộc đời mới, trong cờ xí rợp trời, trong ánh lấp lánh của vàng mạ phủ lên mọi tối tăm, tủi nhục, tiếng rìu đao phủ chìm nghỉm trong khúc quân hành, và đám đông bị mê mẩn bởi những lời cổ vũ hùng hồn rầm rập kéo nhau đi tới miền đất hứa ở tít mù tầm mắt, không nhận thấy máu đồng bào nhơm nhớp dưới chân mình.
Tôi đã đi trong đám đông bị thôi miên, trong cuộc lên đồng vĩ đại.Ở ngoài dân chúng là vậy, thử hỏi ở trung tâm của sự huyễn hoặc này, sự đồng bóng, mê muội còn u mê biết nhường nào.
---
Lê Minh Nguyên tóm dịch - 02/01/2017
Sự phản bội của Nixon trong chiến tranh Việt Nam
Tuy Nixon luôn từ chối là không có ngầm phá sáng kiến hoà bình năm 1968 của TT Johnson để chấm dứt chiến tranh Việt Nam, nhưng bây giờ thì đã rõ là Nixon đã nói dối.
Ghi chú của ông Haldeman ngày 22/10/1968 cho thấy rằng trong cuộc gọi điện thoại vào đêm 22/10/1968, Nixon nói với người phụ tá thân cận nhất (và sau này là Đổng Lý Văn Phòng Toà Bạch Ốc/chief of staff) Haldeman, ra lịnh phá (monkey wrench) những nỗ lực của TT Johnson muốn bắt đầu các cuộc đàm phán hòa bình về chiến tranh Việt Nam. Tuy Nixon luôn phủ nhận việc ra lệnh này, nhưng ghi chú của Haldeman, được lặng lẽ giải mật năm 2007 và gần đây được sử gia Jack Farrell phát hiện, chứng minh ông đã nói dối.
Trong chiến dịch tranh cử, Nixon chỉ đạo nên làm hỏng các các cuộc đàm phán hòa bình, mà ông lo sợ có thể giúp cho đối thủ của ông, Phó Tổng thống Hubert Humphrey, có lợi thế trong cuộc bầu cử năm 1968.
Ghi chú của Haldeman khiến dân Mỹ nhìn vào phía tối của Nixon. Ngoài chuyện tái thẩm định ông, bây giờ còn phải cân nhắc sự vi phạm hình sự, vì bao nhiêu mạng sống của con người bị ảnh hưởng và gần một thập kỷ tương tàn sau đó ở Đông Nam Á, nó đáng trách hơn bất cứ những điều gì Nixon đã làm trong vụ Watergate.
Trong chiến dịch tranh cử, Nixon dẫn trước Humphrey trong mùa thu, nhưng khoảng cách đã bị thu hẹp lại vào tháng mười. Henry Kissinger, lúc đó là cố vấn bên ngoài đảng Cộng hoà (outside Republican adviser) đã gọi cảnh báo Nixon rằng một thỏa hiệp đang trên đà hình thành: Nếu Johnson ngưng dội bom Bắc Việt, Liên Xô cam kết là Hà Nội sẽ tham gia đàm phán xây dựng để chấm dứt chiến tranh mà lúc đó đã làm chết 30,000 người Mỹ.
Nhưng Nixon đã có một đường dây ở Sài Gòn, nơi tổng thống Miền Nam Nguyễn Văn Thiệu đang lo sợ Johnson sẽ bán đứng ông. Nếu ông Thiệu trì hoãn việc đàm phán thì Nixon có thể loan báo rằng hành động của Johnson là một thủ thuật chính trị rẻ tiền. Đường dây này là bà Anna Chennault, một chuyên gia giao tế nổi tiếng của đảng Cộng hòa và là nguời gây quỹ cho Nixon, bà cũng là thành viên vận động hành lang (lobby) cho Trung Hoa Quốc Dân Đảng, bà có quan hệ khắp Châu Á. Nixon dùng bà để thuyết phục TT Thiệu không tham gia thương thảo hoà bình mà TT Johnson đề nghị năm 1968.
Nixon bảo Haldeman dùng bà Rose Mary Woods, thư ký riêng của Nixon, liên hệ với một khuôn mặt Quốc Dân Đảng khác - doanh nhân Louis Kung - để cùng áp lực ông Thiệu. "Bảo ông ta (Thiệu) giữ vững," Nixon nói.
Nixon cũng tìm sự hỗ trợ của Tuởng Giới Thạch, tổng thống Đài Loan. Và ông ra lệnh cho Haldeman điều động ứng cử viên phó tổng thống Spiro T. Agnew đe dọa giám đốc CIA Richard Helms. Agnew nói với Helms là muốn có hy vọng giữ được chức hay không khi Nixon đắc cử thì nó phụ thuộc vào tính dể uốn mình của ông ta. "Nói với ông ta là chúng ta muốn sự thật (tức nói theo ý Nixon) - hay ông ta mất việc," Nixon nói.
Nixon đã tạo ra sự nói dối. Những hành động của ông dường như vi phạm luật liên bang, trong đó luật nghiêm cấm các công dân tìm cách làm "hư hỏng các biện pháp của Hoa Kỳ." Các luật sư của ông Nixon đã chiến đấu trong suốt cuộc đời của ông để giữ cho các hồ sơ của chiến dịch năm 1968 không được tiết lộ. Các thông tin tổng quát của "vụ Chennault" từ từ rò rĩ ra ngoài trong những năm qua. Nhưng vì thiếu bằng chứng là Nixon có trực tiếp tham đã làm cho các sử gia do dự và nhờ vậy mà những người trung thành với Nixon phòng thủ được.
Thời gian đã hé lộ ra những bí mật của Nixon. Ghi chú của Haldeman được giải mã lặng lẽ ở thư viện tổng thống năm 2007.
Tất nhiên, không ai có thể đảm bảo rằng, không có Nixon, cuộc đàm phán sẽ được tiến hành, chưa nói đến việc kết thúc chiến tranh. Nhưng TT Johnson và các cố vấn của ông, ít nhất, tin tưởng vào sứ mệnh của mình và triển vọng cho sự thành công.
Khi Johnson biết được sự thọc gậy của Nixon, ông ra lệnh cho FBI theo dõi các cử động của bà Chennault. Bà "đã liên lạc với Đại sứ Việt Nam Bùi Diễm", theo một báo cáo của FBI ghi nhận, "và khuyên ông rằng bà đã nhận được một tin nhắn từ ông chủ của bà... để chuyển trực tiếp đến ông đại sứ. Bà nói rằng, cái message là... 'Giữ vững. Chúng tôi sẽ chiến thắng... Hãy nói với chủ của ông là nên giữ vững'."
Trong cuộc trò chuyện với nghị sĩ đảng Cộng hòa Everett Dirksen, lãnh tụ thiểu số, Johnson đã buộc tội Nixon. "Tôi đọc được bài trong tay họ, Everett," Johnson nói với người bạn lâu năm của ông. "Đây là tội phản quốc."
"Tôi biết," Dirksen buồn bã trả lời.
Những cộng tác thân cận của Johnson kêu gọi ông vạch mặt hành động của Nixon. Nhưng trong cuộc gọi điện thoại chung nhiều người (conference) ngày 4 tháng 11, họ kết luận rằng họ không thể công khai, vì ngoài những yếu tố khác, họ thiếu "bằng chứng tuyệt đối" như Bộ Trưởng Quốc Phòng Clark Clifford nêu ra, tức sự dính dự trực tiếp của Nixon vào vụ việc.
Và Nixon được bầu làm tổng thống ngày hôm sau (5/11).
- NYT 31/12/2016 (http://nyti.ms/2hDQwHI)
Sự phản bội của Nixon trong chiến tranh Việt Nam
Tuy Nixon luôn từ chối là không có ngầm phá sáng kiến hoà bình năm 1968 của TT Johnson để chấm dứt chiến tranh Việt Nam, nhưng bây giờ thì đã rõ là Nixon đã nói dối.
Ghi chú của ông Haldeman ngày 22/10/1968 cho thấy rằng trong cuộc gọi điện thoại vào đêm 22/10/1968, Nixon nói với người phụ tá thân cận nhất (và sau này là Đổng Lý Văn Phòng Toà Bạch Ốc/chief of staff) Haldeman, ra lịnh phá (monkey wrench) những nỗ lực của TT Johnson muốn bắt đầu các cuộc đàm phán hòa bình về chiến tranh Việt Nam. Tuy Nixon luôn phủ nhận việc ra lệnh này, nhưng ghi chú của Haldeman, được lặng lẽ giải mật năm 2007 và gần đây được sử gia Jack Farrell phát hiện, chứng minh ông đã nói dối.
Trong chiến dịch tranh cử, Nixon chỉ đạo nên làm hỏng các các cuộc đàm phán hòa bình, mà ông lo sợ có thể giúp cho đối thủ của ông, Phó Tổng thống Hubert Humphrey, có lợi thế trong cuộc bầu cử năm 1968.
Ghi chú của Haldeman khiến dân Mỹ nhìn vào phía tối của Nixon. Ngoài chuyện tái thẩm định ông, bây giờ còn phải cân nhắc sự vi phạm hình sự, vì bao nhiêu mạng sống của con người bị ảnh hưởng và gần một thập kỷ tương tàn sau đó ở Đông Nam Á, nó đáng trách hơn bất cứ những điều gì Nixon đã làm trong vụ Watergate.
Trong chiến dịch tranh cử, Nixon dẫn trước Humphrey trong mùa thu, nhưng khoảng cách đã bị thu hẹp lại vào tháng mười. Henry Kissinger, lúc đó là cố vấn bên ngoài đảng Cộng hoà (outside Republican adviser) đã gọi cảnh báo Nixon rằng một thỏa hiệp đang trên đà hình thành: Nếu Johnson ngưng dội bom Bắc Việt, Liên Xô cam kết là Hà Nội sẽ tham gia đàm phán xây dựng để chấm dứt chiến tranh mà lúc đó đã làm chết 30,000 người Mỹ.
Nhưng Nixon đã có một đường dây ở Sài Gòn, nơi tổng thống Miền Nam Nguyễn Văn Thiệu đang lo sợ Johnson sẽ bán đứng ông. Nếu ông Thiệu trì hoãn việc đàm phán thì Nixon có thể loan báo rằng hành động của Johnson là một thủ thuật chính trị rẻ tiền. Đường dây này là bà Anna Chennault, một chuyên gia giao tế nổi tiếng của đảng Cộng hòa và là nguời gây quỹ cho Nixon, bà cũng là thành viên vận động hành lang (lobby) cho Trung Hoa Quốc Dân Đảng, bà có quan hệ khắp Châu Á. Nixon dùng bà để thuyết phục TT Thiệu không tham gia thương thảo hoà bình mà TT Johnson đề nghị năm 1968.
Nixon bảo Haldeman dùng bà Rose Mary Woods, thư ký riêng của Nixon, liên hệ với một khuôn mặt Quốc Dân Đảng khác - doanh nhân Louis Kung - để cùng áp lực ông Thiệu. "Bảo ông ta (Thiệu) giữ vững," Nixon nói.
Nixon cũng tìm sự hỗ trợ của Tuởng Giới Thạch, tổng thống Đài Loan. Và ông ra lệnh cho Haldeman điều động ứng cử viên phó tổng thống Spiro T. Agnew đe dọa giám đốc CIA Richard Helms. Agnew nói với Helms là muốn có hy vọng giữ được chức hay không khi Nixon đắc cử thì nó phụ thuộc vào tính dể uốn mình của ông ta. "Nói với ông ta là chúng ta muốn sự thật (tức nói theo ý Nixon) - hay ông ta mất việc," Nixon nói.
Nixon đã tạo ra sự nói dối. Những hành động của ông dường như vi phạm luật liên bang, trong đó luật nghiêm cấm các công dân tìm cách làm "hư hỏng các biện pháp của Hoa Kỳ." Các luật sư của ông Nixon đã chiến đấu trong suốt cuộc đời của ông để giữ cho các hồ sơ của chiến dịch năm 1968 không được tiết lộ. Các thông tin tổng quát của "vụ Chennault" từ từ rò rĩ ra ngoài trong những năm qua. Nhưng vì thiếu bằng chứng là Nixon có trực tiếp tham đã làm cho các sử gia do dự và nhờ vậy mà những người trung thành với Nixon phòng thủ được.
Thời gian đã hé lộ ra những bí mật của Nixon. Ghi chú của Haldeman được giải mã lặng lẽ ở thư viện tổng thống năm 2007.
Tất nhiên, không ai có thể đảm bảo rằng, không có Nixon, cuộc đàm phán sẽ được tiến hành, chưa nói đến việc kết thúc chiến tranh. Nhưng TT Johnson và các cố vấn của ông, ít nhất, tin tưởng vào sứ mệnh của mình và triển vọng cho sự thành công.
Khi Johnson biết được sự thọc gậy của Nixon, ông ra lệnh cho FBI theo dõi các cử động của bà Chennault. Bà "đã liên lạc với Đại sứ Việt Nam Bùi Diễm", theo một báo cáo của FBI ghi nhận, "và khuyên ông rằng bà đã nhận được một tin nhắn từ ông chủ của bà... để chuyển trực tiếp đến ông đại sứ. Bà nói rằng, cái message là... 'Giữ vững. Chúng tôi sẽ chiến thắng... Hãy nói với chủ của ông là nên giữ vững'."
Trong cuộc trò chuyện với nghị sĩ đảng Cộng hòa Everett Dirksen, lãnh tụ thiểu số, Johnson đã buộc tội Nixon. "Tôi đọc được bài trong tay họ, Everett," Johnson nói với người bạn lâu năm của ông. "Đây là tội phản quốc."
"Tôi biết," Dirksen buồn bã trả lời.
Những cộng tác thân cận của Johnson kêu gọi ông vạch mặt hành động của Nixon. Nhưng trong cuộc gọi điện thoại chung nhiều người (conference) ngày 4 tháng 11, họ kết luận rằng họ không thể công khai, vì ngoài những yếu tố khác, họ thiếu "bằng chứng tuyệt đối" như Bộ Trưởng Quốc Phòng Clark Clifford nêu ra, tức sự dính dự trực tiếp của Nixon vào vụ việc.
Và Nixon được bầu làm tổng thống ngày hôm sau (5/11).
- NYT 31/12/2016 (http://nyti.ms/2hDQwHI)

Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét