14/7/16

30 năm – 2 phán quyết: Siêu cường và luật pháp quốc tế


Việt Vô Vị


Nicaragua vs Mĩ (1986)

Năm 1986, Tòa Công lý quốc tế (ICJ) xử Mĩ thua kiện trong vụ kiện đứng đơn bởi Nicaragua chống lại các hành vi quân sự và bán quân sự của Mĩ tại nước này, bất chấp việc Mĩ từ chối tham gia tố tụng và bác bỏ thẩm quyền xét xử của Tòa. Tòa cho rằng mình có thẩm quyền xét xử ngay cả khi bị đơn vắng mặt. Phán quyết của Tòa chỉ ra rằng Mĩ đã vi phạm luật pháp quốc tế bằng việc hậu thuẫn cho lực lượng nổi dậy Contras chống lại chính quyền Nicaragua và đánh bom hải cảng của Nicaragua.

Với 12/15 phiếu thuận, điểm 6 trong phán quyết của tòa ICJ có đoạn “bằng việc đặt bom trong vùng nội thủy hoặc vùng lãnh hải của nước Cộng hòa Nicaragua đầu năm 1984, Mĩ đã chống lại nước Cộng hòa Nicaragua, vi phạm nghĩa vụ của mình theo thông lệ luật pháp quốc tế là không sử dụng vũ lực chống lại quốc gia khác, không can thiệp vào chuyện nội bộ của quốc gia khác, không xâm phạm chủ quyền và ngăn cản thương mại hòa bình hàng hải”

Mĩ, tất nhiên đã không công nhận phán quyết của tòa. Tại Hội đồng Bảo An Liên hiệp quốc, ngày 28/10/1986, Mĩ đã phủ quyết nghị quyết về việc kêu gọi các bên tuân thủ luật pháp quốc tế (1 veto của Mĩ, 11 phiếu thuận và 3 phiếu trắng của Pháp, Anh và Thái Lan). Nicaragua phải mang vụ việc ra Đại hội đồng Liên hiệp quốc, và một nghị quyết với 94/97 phiếu thuận được thông qua kêu gọi các bên tuân thủ phán quyết của Tòa quốc tế. Duy nhất chỉ có Israel và El Salador bỏ phiếu chống cùng với Mĩ. Một năm sau (1987), một lần nữa Đại hội đồng kêu gọi “chấp hành đầy đủ ngay lập tức” phán quyết của tòa và lần này chỉ có duy nhất Israel bỏ phiếu chống cùng với Mĩ. Bất chấp phán quyết của tòa quốc tế và 2 nghị quyết của Đại hội đồng Liên hiệp quốc, Nicaragua cuối cùng đã không nhận được một xu bồi thường nào từ Mĩ!

Đây là một ví dụ kinh điển về tính hiệu lực của phán quyết của tòa án quốc tế dựa trên công pháp quốc tế. Nói một cách nôm na là “con kiến mày kiện củ khoai”, còn nói một cách học thuật thì câu chuyện này đặt ra câu hỏi liệu phán quyết của các Tòa án quốc tế có ràng buộc được các siêu cường chính trị?

Philippine vs Trung Quốc (2016)

30 năm sau, ngày 12/7/2016, Tòa thường trực (PCA) ra phán quyết vụ Philippines kiện Trung Quốc áp dụng sai, giải thích sai, vi phạm Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS 1982). Trung Quốc cũng bác bỏ thẩm quyền xét xử của Tòa nhưng Tòa vẫn đưa ra phán quyết và cho rằng mình vẫn có đầy đủ thẩm quyền xét xử ngay cả khi vắng mặt bị đơn.

Bên cạnh nội dung về thẩm quyền xét xử của tòa, phán quyết có nhiều nội dung thực chất quan trọng, trong số đó đáng lưu ý là: 

(1) Bác bỏ yêu sách về quyền lịch sử đối với tài nguyên tại các vùng biển phía trong đường 9 đoạn (đường lưỡi bò) 

(2) Kết luận các đảo thuộc Trường Sa đều là “các đảo đá không thích hợp cho con người đến ở và có đời sống kinh tế riêng không có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa”; vì vậy không một cấu trúc nào ở đảo Trường Sa có khả năng tạo ra các vùng biển mở rộng; 

(3) Chỉ ra tính phi pháp của các hoạt động của Trung Quốc trái với UNCLOS, bao gồm: (a) can thiệp vào hoạt động đánh cá và thăm dò dầu khí của Phi-líp-pin, (b) xây dựng đảo nhân tạo và (c) không ngăn chặn ngư dân Trung Quốc đánh bắt ở khu vực này. 

(4) Chỉ ra việc Trung Quốc đã gây hại nghiêm trọng với môi trường của các rặng san hô và vi phạm nghĩa vụ bảo tồn và bảo vệ các hệ sinh thái dễ bị tổn thương và môi trường sống của các loài đang suy yếu, bị đe doạ và bị huỷ diệt và 

(5) Nhận thấy rằng việc bồi đắp và xây dựng đảo nhân tạo trên quy mô lớn của Trung Quốc gần đây là không phù hợp với nghĩa vụ của quốc gia thành viên Công ước trong quá trình giải quyết tranh chấp, trong chừng mực mà Trung Quốc đã gây ra những tác hại không thể sửa chữa được với môi trường biển, xây dựng một đảo nhân tạo lớn trong vùng đặc quyền kinh tế của Phi-líp-pin, và phá huỷ các bằng chứng về điều kiện tự nhiên của các cấu trúc ở Biển Đông mà là một phần của tranh chấp giữa các Bên.

Kiện làm cái gì?

Thoạt nhìn vụ kiện Philippine vs Trung Quốc khá giống với Nacaragua vs Mĩ đã nêu ở trên. Hành động của Trung Quốc có thể tiên lượng được theo tiền lệ 30 năm trước của Mĩ: tẩy chay phán quyết của tòa, vận động hạ bệ uy tín của tòa PCA, phủ quyết tại Hội đồng Bảo an LHQ nếu có nghị quyết thúc giục nước này tuân thủ phán quyết của tòa, mua chuộc phiếu tại Đại hội đồng LHQ và phớt lờ ngay cả khi Đại hội đồng đưa ra một nghị quyết về vấn đề này. Câu chuyện pháp lý sẽ chấm dứt ở đó và luật pháp quốc tế cũng không thể làm gì hơn để cưỡng chế thành viên của mình chấp hành phán quyết của tòa, nhất là khi thành viên ấy lại có một chân thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an LHQ và đang nhăm nhe trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới (về quy mô).

Nhưng đó mới chỉ là một nửa của vấn đề.

Nếu chỉ nhìn một cách thực dụng và phiến diện rằng hiệu lực của tòa án quốc tế là mức độ chấp hành phán quyết của tòa thì rõ ràng các tòa án quốc tế bất lực trước các siêu cường. Nhưng Tòa án quốc tế với tư cách là công cụ chấp pháp của luật pháp quốc tế là một công cụ không thể tách rời của quan hệ quốc tế. Vì thế các phán quyết của tòa, dù được chấp hành hay không, cũng sẽ kích hoạt các kênh tác động đến mối quan hệ quốc tế.

Thứ nhất, một phán quyết ngay cả khi không được chấp hành cũng sẽ củng cố và làm mạnh thêm công pháp quốc tế mà tòa đó bảo vệ. Một nghịch lý là sau vụ kiện Nicaragua vs Mĩ, số đơn kiện mà tòa Công lý quốc tế (ICJ) nhận được tăng mạnh, bất chấp việc phán quyết không được thi hành và Mĩ ra sức hạ bệ uy tín của tòa! ICJ là công cụ đảm bảo thực thi Hiến chương Liên hiệp quốc và khi Tòa này dám thụ đơn, xử bất lợi cho siêu cường mạnh nhất thế giới (Mĩ), niềm tin về tính nghiêm minh, công bằng của tòa được củng cố và địa vị pháp lý của Hiến chương LHQ được tăng cường. Tương tự có thể dự đoán, dù phán quyết của tòa PCA lần này có được chấp hành hay không, thì trong tương lai sẽ có nhiều đơn kiện được gửi tới PCA nhờ vào tính nghiêm minh và công bằng đã được kiểm chứng của nó. Những nước còn do dự trước hành động pháp lý sẽ được củng cố niềm tin sau phán quyết này để ra quyết định. UNCLOS sẽ càng được sử dụng phổ biến trong việc điều chỉnh mối quan hệ giữa các nước thành viên, không chỉ với tư cách là công cụ đàm phán mà còn là công cụ tố tụng được ưa chuông.

Thứ hai, ngay cả khi siêu cường từ chối thi hành phán quyết của tòa thì phán quyết ấy cũng làm siêu cường bẽ mặt trước công luận và ít nhiều điều chỉnh hành vi của mình. Trong vụ Nicaragua vs Mĩ, ngay khi Tòa đưa ra biện pháp tạm thời vào năm 1984 yêu cầu Mĩ ngừng hành động hậu thuẫn Contras chống lại Chính quyền Sandinista của Nicaragua, Hạ viện Mĩ đã bác yêu cầu viện trợ cho Contra của chính quyền Reagan. Các yêu cầu tương tự sau đó đã bị bác cho đến tận ngày 25/6/1986, 2 ngày trước ngày đưa ra phán quyết chính thức của tòa ICJ (1986). Mặc dù sau đó viện trợ tiếp tục được duy trì, nhưng 2 năm gián đoạn đã làm suy yếu Contra và khiến nó không thể trở thành mối đe dọa nguy hiểm với chính quyền Nicaragua. Với chính thể “tam quyền hợp nhất” của Trung Quốc, khó có thể trông mong một sự thay đổi ngay lập tức trong hành động của “bên thua kiện”, nhưng chắc chắn sẽ có phân hóa và ít nhiều đắn đo trong một động tác sắp tới của nước này.

Thứ ba, phán quyết của tòa ngày cả khi không được thực thi cũng sẽ đặt ra những chuẩn mực mới trong quan hệ quốc tế (thông qua hệ thống án lệ quốc tế). Một chức năng quan trọng của các tòa án quốc tế và các phán quyết của chúng là diễn giải luât. Luật pháp quốc tế là sự trộn lẫn giữa các nguyên tắc pháp lý và các thỏa thiệp chính trị giữa các nước thành viên. Trong các điều ước quốc tế có rất nhiều khái niệm, nguyên tắc mơ hồ, không rõ ràng, có thể dễ dàng bị diễn giải và bóp méo theo nhiều cách khác nhau. Tòa quốc tế là nơi đưa ra cách diễn giải thống nhất cho các vấn đề này thông qua phán quyết của mình.

Trong vụ kiện Nicaragua vs Mĩ, phán quyết của tòa ICJ đã diễn giải một cách cụ thể về hành vi “sử dụng vũ lực chống lại quốc gia khác”, “xâm phạm chủ quyền của quốc gia khác”. Mĩ đã ít nhiều để tâm đến điều này trong các quyết định sau đó của mình. Bằng chứng là nước này không còn đơn phương mang bom đến cài ở các nước thù địch nữa mà phải tìm những cách tinh vi hơn. Ví dụ muốn lật đổ Saddam Hussein, Mĩ và Anh phải dựng lên cáo buộc về “sở hữu vũ khí hủy diệt hàng loạt” để đổ quân vào nước này. Tương tự, muốn tiêu diệt chế độ Gadhafi của Lybia, Mĩ phải viện dẫn đến Nghị quyết 1973 của Hội đồng Bảo an LHQ về thiết lập “vùng cấm bay” và mượn danh của “liên quân”.

Với Trung Quốc, dù không chấp hành phán quyết của tòa PCA, nước này chắc chắn sẽ phải thay đổi phương thức hành xử của mình khi tòa bác bỏ việc khẳng định chủ quyền bằng cách cải tạo, xây mới các thực thể trên các đảo đá ở Trường Sa và Hoàng Sa. Tương tự các hành vi cấm các nước khác đánh bắt cá, khai thác dầu khí, chủ động đâm va trong vùng tòa đã ra phán quyết, nếu tiếp diễn sẽ trở nên ngô nghê về mặt pháp lý.

Tuy nhiên, điều nguy hiểm là xét trên khía cạnh này, phán quyết của Tòa quốc tế có thể tác động làm thay đổi hành vi của các nước lớn nhưng không lay động được ý chí của họ. Các “siêu cường” sẽ phải mưu tính những chiêu trò tinh vi hơn để đạt mục đích của mình, mặc dù bớt manh động, thô thiển nhưng không nhất thiết kém phần man trá và hung hãn.

Tưởng vậy mà không phải vậy!

Mọi sự so sánh đều khập khiễng và sẽ không thể nhìn được đủ vấn đề nếu chỉ soi vụ kiện Philipine vs Trung Quốc dưới cái bóng của Nicaragua vs Mĩ 30 năm trước. Ít nhất có 3 điểm khác biệt ở đây.

Thứ nhất, các so sánh tương đồng nêu trên dựa trên giả định Trung Quốc cũng đang là siêu cường. Nhưng trên thực tế, Trung Quốc có thể “muốn trở thành siêu cường”, “tự nhận mình là siêu cường” nhưng vẫn chưa phải là siêu cường. Phần lớn các học giả thống nhất rằng sau chiến tranh lạnh Mĩ là siêu cường duy nhất và sớm nhất cũng phải đến năm 2030 vị trí này mới bị thách thức. Bằng chứng là tại thời điểm hiện tại, Mĩ, với sức ảnh hưởng quốc tế trên tất cả các lĩnh vực của mình, có khả năng cấm vận nhiều nước, kể cả Nga hay Trung Quốc còn điều ngược lại thì không.

Điều này có hai hàm ý. Một là, cái giá phải trả của Trung Quốc khi phớt lờ phán quyết PCA sẽ cao hơn rất nhiều so với việc Mĩ phớt lờ phán quyết ICJ. Là siêu cường, Mĩ chỉ phải đối diện với việc mất thể diện trước công luận quốc tế (các nghị quyết của Đại hội đồng LHQ). Chưa phải là siêu cường, Trung Quốc có khả năng phải đối mặt với nhiều rủi ro và thách thức hơn thế, cả về quân sự, ngoại giao, kinh tế,… Hai là, điều gì sẽ xảy ra, với thế giới nói chung và các nước tranh chấp ở biển Đông nói riêng, nếu có ngày Trung Quốc thực sự trở thành một siêu cường của thế giới? Điều rất may mắn là cái mặt nạ “trỗi dậy hòa bình” đã kịp tuột xuống sớm. Nhưng cũng không có nghĩa là cơn ác mộng này sẽ không thể xảy ra.

Thứ hai, Nacaragua vs Mĩ là vấn đề song phương, trong khi Philipine vs Trung Quốc là vấn đề liên quan đến vùng biển quốc tế gắn với tranh chấp của nhiều bên và tự do hàng hải của hơn 1/3 khối lượng hàng hóa vận chuyển bằng đường biển trên thế giới. Chống lại phán quyết ICJ, Mĩ chỉ xâm phạm quyền lợi của một quốc gia cụ thể. Chống lại phán quyết PCA, Trung Quốc sẽ công khai chống lại lợi ích, trong đó có cả lợi ích “cốt lõi” của nhiều quốc gia, không chỉ các láng giếng tranh chấp mà cả nhiều cường quốc khác. Nói cách khác, vụ kiện này kèm với phán quyết của tòa quốc tế đã mãi mãi biến tranh chấp biển Đông thành một vấn đề quốc tế, và không thể trở lại vấn đề trên bàn đàm phán song phương, nơi mà người ta dễ dàng “cả vú lấp miệng em”, giữa Trung Quốc và một nước nào đó!

Thứ ba, Nacaragua vs Mĩ là vụ kiện về một việc đã rồi còn Philippines vs Trung Quốc là vụ kiện về một việc đã rồi nhưng sẽ vẫn còn diễn biến trong tương lai. Bởi thế thái độ và phán ứng từ bên ngoài trước hành động bất tuân luật pháp của Trung Quốc cũng sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp, căn cứ vào hiện trạng nơi thực địa và sẽ không nhanh chóng rơi vào quên lãng như vụ kiện Nacaragua vs Mĩ.

Bài học cho Việt Nam

Bài viết này đã đề cập đến rất nhiều vấn đề gai góc về mối quan hệ giữa luật pháp quốc tế và quan hệ quốc tế thống qua việc so sánh hai phán quyết cách nhau 30 năm giữa Nicaragua vs Mĩ và Philipine vs Trung Quốc. Vậy có thể rút ra được những bài học gì cho Việt Nam?

Thứ nhất, trái ngược với niềm vui hồn nhiên của công chúng khi đón nhận tin thua kiện của Trung Quốc, người viết cho rằng phán quyết này chưa rõ là tin vui hay tin buồn với Việt Nam. Không thể hồn nhiên nói rằng phán quyết này là công lý cho Việt Nam khi mà nó phân xử câu chuyện giữa Trung Quốc và Philipine và lập trường của Việt Nam chỉ được gắn vào phụ lục của phán quyết. Hơn thế nữa, khả năng thực thi công lý quốc tế, không phụ thuộc vào phán quyết của tòa, mà phụ thuộc nhiều hơn vào tương quan lực lượng của các bên tranh chấp, như những gì có thể thấy rất rõ qua vụ kiện Nicaragua vs Mĩ. Thực lòng với chính mình mà nói, nếu hoàn toàn ủng hộ phán quyết của PCA, liệu chúng ta có phải xem xét lại các hành vi mà Việt Nam đã và vẫn đang làm tương tự với Trung Quốc như cơi nới mở rộng các “đảo đá” ở Trường Sa, đánh bắt cá ở các vùng biển chồng lấn với EEZ của các nước bạn trong khu vực, hay việc hủy hoại các tài nguyên cần bảo tồn như san hô, rùa biển,…?

Thứ hai, vui và buồn trước phán quyết đã được tuyên không quan trọng bằng việc suy tính cần làm gì trước phán quyết ấy. Thách thức có: nước bạn sẽ có thể hung hãn hơn, tinh vi hơn khi mà đã hoàn toàn đuối lý trước luật quốc tế, và có khả năng công khai sử dụng luật rừng. Nhưng cơ hội cũng có khi phán quyết của PCA làm thay đổi cục diện: công khai các hành động hung hãn của Trung Quốc, quốc tế hóa tranh chấp ở biển Đông, mở đường cho sự tham gia bàn cờ của các lực lượng ngoài khu vực.

Có thể ví vụ kiện của Philipine như việc khuấy sóng ở biển Đông, dù muốn hay không thì biển Đông không còn nguyên vẹn như trước vụ kiện nữa và đã đặt ra những xu thế và nhân tố mới. Nó phá vỡ cân bằng trì trệ vẫn có ở đây, đẩy các xung đột lên cao trào, đặt các bên vào thế phải tỏ thái độ quyết liệt hơn, khó có thể trung dung được nữa. Tương lai rồi đây sẽ trở nên bất định, và có thể căng thẳng hơn, nhưng ngay cả khi xung đột quân sự có xảy ra thì cũng là sự cần thiết để tái lập một cân bằng mới ở khu vực này.

Câu hỏi cuối cùng, liệu Việt Nam có nên đâm đơn kiện theo gương Philipines? Theo ý kiến chủ quan của tác giả, nếu chỉ đâm đơn để đợi chờ “công lý” hão huyền mà một tòa quốc tế có thể ban phát, theo kiểu con kiến mày kiện củ khoai, thì không cần. Nhưng nếu kiện để khởi động một công cụ quan hệ quốc tế có lợi cho Việt Nam, thì rất nên.

Một lần nữa cần nhắc lại công lý phục thuộc rất nhiều vào tương quan lực lượng. Trong trò chơi pháp lý quốc tế, công lý không giành cho kẻ yếu và càng không giành cho kẻ cô độc (nếu không tin, mời đọc lại phán quyết Nicaragua vs Mĩ). Muốn có công lý, không phải chỉ đơn giản đi kiện, mà phải làm cho mình hoặc là mạnh lên hoặc là không còn cô độc nữa.

Reference

[1] Davenport, T., Why the South China Sea Arbitration Case Matters (Even if China Ignores It), The Diplomat, http://thediplomat.com/2016/07/why-the-south-china-sea-arbitration-case-matters-even-if-china-ignores-it/

[2] Internaional Course of Justice, Summary of the Summary of the Judgment of 27 June 1986: CASE CONCERNING THE MILITARY AND PARAMILITARY ACTIVITIES IN AND AGAINST NICARAGUA (NICARAGUA v. UNITED STATES OF AMERICA) (MERITS) http://www.icj-cij.org/docket/?sum=367&p1=3&p2=3&case=70&p3=5

[3] UN General Assembly, Resolution A/RES/41/31 of UN General Assembly on 3 November 1986 on Judgment of the International Court of Justice of 27 June 1986 concerning military and paramilitary activities in and against Nicaragua: need for immediate compliance http://www.un.org/documents/ga/res/41/a41r031.htm

[4] UN Securities Council, Provisonal Verbatim record of the two thousand seven hundred and eighteenth meeting http://www.un.org/ga/search/view_doc.asp?symbol=S/PV.2718

[5] SCIS, THÔNG CÁO BÁO CHÍ Toà Trọng tài Biển Đông (Cộng hoà Phi-líp-pin v Cộng hoà nhân dân Trung Hoa) La Hay, 12 tháng 7 năm 2016 http://scis.hcmussh.edu.vn/?ArticleId=f2af53d0-c521-45ed-8466-4cd4ad94ccab

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét